Thứ Ba, 30 tháng 4, 2013

CĂN NGUYÊN


   CĂN NGUYÊN
    Nhân ngày 30-4, nhắc lại thời năm 70, nhiều bạn nhắc lại chuyện công an đứng đầu đường, cắt tóc dài và xẻo quần ống loe.
    Đúng là có chuyện ấy thật. Trước đó mấy năm, CA còn rạch quần ống tuýp. Mỗi anh CA cầm mỗi cái chai, anh chị nào mặc quần hơi bóp là CA gọi vào. Đứng nghiêm, CA đút chai không vô ống quần, là xoẹt,, xoẹt...lên đến tận đùi.
Còn anh nào để tóc dài cờm gáy, công an cũng gọi vô. Dùng kéo, xiết một “cua” từ trước ra sau. Việc còn lại, là của thợ cắt tóc.
  Sau ngày giải phóng, lại mốt quần ống loe. Thế là các chiến sĩ CA ta, mỗi người lại cầm cái que dài 1 gang: alê, quần loe vào đây. Đo xong, xẻo luôn.
Nhắc những chuyện này, ai cũng cười chính sách thời ấy tủn mủn và vô duyên.
Nhưng căn nguyên vì sao lại có những chính sách đó, thì không mấy ai bàn.
Theo những người am hiểu kể lại, hồi ấy, các nhà hoạch định chính sách xuất thân rất giản dị. Bố mẹ họ, thường là thợ cắt tóc, bán vải, hoặc là thợ may.
   Chính sách cho CA cắt tóc dài, là do bố ông làm ra cái chính sách đó, làm nghề cắt tóc. Hận mốt nuôi tóc dài, ông mắng con:
- Anh phải dẹp cái loạn tóc dài ngay, nếu không thì nghề của tui thất truyền mất...
  Bà mẹ của ông sếp ấy lại làm nghề bán vải. Ghét bọn quần quần ống tuýp, bà ta phụ họa với chồng:
   - Đúng rồi, luôn thể anh dẹp đám ống tuýp cho tôi nhờ. Cái bọn thiếu vải...
    Thời ống loe du nhập, lại là thời con bà thợ may làm chính sách. Thế là, quần ống loe bị tuyên án. Thợ may một quần ống loe, công gấp đôi mà tiền công chả hơn quần thường.
Lại còn cái lợi nữa, là những mẩu loe bị xẻo, thu về. Vòng vèo lại đến thợ may, thành những chiếc vỏ gối hay vỏ chăn rất mốt.
 Gần đây, những quy định này không còn, vì người nhà các vị làm chính sách thời nay không còn bán vải, cắt tóc hay may vá nữa. Họ thường mở doanh nghiệp, buôn đất, buôn vàng, buôn chức, buôn tiền. Vì vậy, cái cần cắt, cần đo, cần xẻo không phải là tóc tai và quần áo nữa.
Đoán căn nguyên, để mà thông cảm cho các nhà làm chính sách. Họ cũng có những cái khó, phải không các bạn!

Thứ Hai, 29 tháng 4, 2013

MẶT CƯỜI Ở NGÂN HÀNG


MẶT CƯỜI TẠI NGÂN HÀNG

Ở ngân hàng, người nào có bộ mặt tươi cười nhất?

Mấy lần đến ngân hàng, mình thấy ra ni:
Lần thứ nhất, mình đến định vay tiền. Hồi đó, phải có tay trong hoặc thần thế lắm mới vay được tiền ngân hàng, và tất nhiên là mình về tay không. Mặt rạng rỡ nhất, là của những ai vay được tiền.
Mấy năm sau, mình lại đến để vay tiền. Thì cái thời đó, mọi người đua nhau gửi tiền vào ngân hàng. Mặt vay tiền, khó đăm đăm. Mặt gửi tiền, tươi hơn hớn.
Năm ngoái, đến ngân hàng. Thấy người gửi, người vay mặt đều thất thần. Chỉ có nhân viên ngân hàng, mặt tươi roi rói.
Lúc nãy, lại đến cái chỗ buôn tiền ấy. Thấy tất cả mọi người, kẻ vay, người gửi, cho đến nhân viên ngân hàng, đều có vẻ mặt u ám. Nhìn quanh, chả có bộ mặt nào tươi tỉnh.
Nhìn mãi, mới thấy mặt cười. Ấy là mặt cười trên tờ giấy bạc.

CẨM NANG NGÀY LỄ


CẨM NANG NGÀY LỄ
Ngày lễ, nếu bạn buộc phải đi ra đường, thì nên:
- Đội mũ BH và đem theo giấy tờ, tránh xa bục công an nếu có thể.
- Đem theo tiền lẻ, nếu bạn không muốn trở thành kẻ ki bo, hay bóc ngắn cắn dài, trước mặt bạn bè.
- Đem theo đủ loại áo mưa, và phải kiểm tra áo có bị rách hay không.
- Buổi tối trở về, nép vào lề đường, tránh những thằng say. Hoặc bạn phải lạng quạng, giả bộ say, để mọi người tránh
- Và cuối cùng, trừ lại một số tiền vừa đủ, bỏ vào nơi dễ thấy, ghi ngoài phong bì: “gửi bác sỹ”.
(Và nhớ không phổ biến cẩm nang này cho quá nhiều người.)

SAO KHÔNG HÒA HỢP?


 SAO KHÔNG HÒA HỢP
Tại sao người Việt khó hòa hợp với nhau.
Chuyện khó hòa hợp, không chỉ là với người Việt miền Nam, miền Bắc, không chỉ với người Việt CS và không CS. Mà sự hòa hợp khó khăn cả với những người “khác êkíp” trong một cơ quan, khó khăn với cả với những cãi cọ của “bạn bè” trên FB, và cả với những va chạm trong từng gia đình.
 Có nhiều lý do, trong đó có lý do là tính độc đoán của người Việt.
Nói cách khác, mỗi người Việt, là một tên độc tài tiềm năng. Trong máu mỗi người, chất dân chủ bị lấn át bởi chất độc tài.
Không đa nguyên đa đảng, chỉ muốn đa dâm.
Không thích hòa hợp, chỉ thích giao hợp.
 He! he!


Nhân ngày nghỉ, có mấy bạn học sinh cũ vừa tốt nghiệp ĐH, đến nhà mình chơi. Mình hỏi:
- Chúc mừng các em đã có bằng ĐH. Nào thử báo cáo xem, các em đậu loại gì?
Cậu Đông thưa:
- Dạ, bốn đứa em bằng khá, riêng bạn Minh bằng giỏi ạ!
Minh vốn là cô lớp trưởng năng nổ và học giỏi. Nay đậu ĐH loại giỏi là rất xứng đáng. Mình hỏi tiếp:
- Còn vấn đề xin việc của các em, thì đến đâu rồi?
Cậu Mai cười:
- Bọn em mơ như bạn Minh, có ngay việc làm ngon lành và lương khá cao ạ.
Mình cười to:
- Nghĩa là, giỏi như Minh vẫn còn ngồi mơ có việc, và tất cả các em, thì ngồi “mơ như bạn Minh” chứ gì?
Cả bọn ồ lên cười, rồi trầm trồ:
-Thầy cao thủ thật, bọn em chém gió định trêu thầy một chút, mà thầy phát hiện ra liền..
Mình ôn tồn:
- Không cao thủ, không cao thủ. Chẳng qua thầy biết, bố mẹ bạn Minh chỉ là nông dân. Và cũng vì, thầy vẫn luôn mơ, là nhà nước sẽ dùng người tài, các em ạ.

NỊNH THƠM


 NỊNH THƠM

Trên websitenguyentandung.org. có bài “30/4 TÔI NGHĨ VỀ THỦ TƯỚNG”
của tác giả Bình Minh.

Tác giả BM khen nhiều về thủ tướng, sau đó kể câu chuyện, mình tóm tắt lại như sau:

“Xưa có một người kỳ tài về vẽ tranh, ông muốn truyền thụ lại kinh nghiệm cho một đệ tử ruột. Ông gọi anh ta đến, rồi bảo:
- Con hãy đưa hết khả năng vẽ 1 bức tranh, nếu được mọi người công nhận, thì coi như con được chứng nhận là một họa sĩ giỏi.
Anh học trò vẽ 1 bức tranh, đưa cho thầy. Ông thầy nói:
- Bây giờ con ra giữa phố và treo bức tranh lên, bên dưới con hãy ghi: “Đây là bức tranh đẹp nhất, tôi rất cám ơn nếu mọi người nếu thấy có chỗ sai thì hãy lấy bút đỏ bên dưới đánh dấu chéo vào nơi đó”.
  Một tháng sau anh quay lại. Kết quả là bức tranh dường như đã bị nhuộm đỏ bởi các dấu chéo.
  Anh học trò rất buồn. Thầy anh ta liền bảo vẽ một bức tranh khác. Anh học trò  vẽ và đưa bức tranh thứ hai đến, thầy bảo:
- Con hãy mang đặt lại nơi ấy. Nhưng hãy ghi bên dưới dòng chữ: “Đây là bức tranh đẹp nhất. Tôi rất cám ơn nếu ai đó có thể phát hiện ra cái sai và hãy lấy cọ màu đặt bên dưới bức tranh này giúp tôi sửa lại chi tiết sai đó”.
  Hai tháng sau, anh học trò quay lại và ngạc nhiên khi thấy bức tranh chẳng hề bị sửa lại. Thầy anh bảo:
- Con thấy đó, ở mỗi người có những ưu điểm và khuyết điểm. Người khác chỉ dám chỉ ra khuyết điểm của ta, nhưng khắc phục thì họ lại không làm được.”
Cuối cùng, tác giả B M khuyên mọi người: “Không nên chỉ nhìn vào khuyết điểm của Thủ tướng”.
  
  Mình đọc đi đọc lại câu chuyện này, và hết sức băn khoăn. Ông Bình Minh chắc muốn khen thủ tướng, nhưng người đọc lại dễ hiểu ý của bài viết là:
 “Thủ tướng ta, toàn làm sai. Và nếu có thách, cũng không ai sửa được những cái sai đó.”
 Khổ lắm, ông Bình Minh ơi. Nịnh cho thơm, đâu phải là chuyện dễ.
  

TRÔN LÀ...


TRÔN LÀ CÁI GÌ
Dân gian có câu: “Miệng quan trôn trẻ”.
Miệng quan, thì ai cũng thấy cũng nghe cũng biết. Nhưng trôn trẻ là gì?
Có người bảo, là đít trẻ con. Bọn trẻ con, muốn soẹt khi nào thì soẹt. Mà khi chặt khi lỏng, bất kì chi khươn, khó lòng đoán trước. Y như mồm các quan.
Nhưng có người cãi, trôn người đâu phải là trôn bát. Nếu hiểu trôn là đít, thì “bán trôn nuôi miệng” thế quái nào được. Vậy phải hiểu trôn trẻ, là cái ấy của gái trẻ. Có thế thì mới so với miệng các quan được chơ. Xuất khẩu (hay trôn) một phát, là thu về triệu này tỷ khác.
Nghe ai cũng có lý, khó biết đúng sai. Phải hỏi người trong cuộc, xin các quan phân xử hộ, trôn là cái gì vậy?

LÝ....THÔNG


LÔGIC KIỂU...LÝ THÔNG.
Bác Hồ nói: “Quân đội ta, trung với nước, hiếu với dân”, HP mới viết: “Quân đội ta, trung với Đảng...”
 Bảo vệ sự thay đổi đó, Ông PGS-TS Nguyễn Viết Thông (Tổng thư ký Hội đồng lý luận Trung ương) lập luận: “Đảng CSVN không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ Quốc, phụng sự nhân dân nên Quân Đội trung thành tuyệt đối với Đảng CSV thì cũng là trung thành và phụng sự Tổ Quốc, nhân dân.
 Không bàn về nội dung chính trị, ta chỉ xét tính lôgic của lập luận trên.
 Lập luận trên có dạng:
“A trung thành với B, C phụng sự B, vậy A phải trung thành với C”.
Thử thay thế một số “nội hàm” vào vị trí của A, B, C, ta có các ví dụ sau:
Ví dụ 1: Ông Thông trung thành với cha ông Thông, thằng đầy tớ phụng sự cha ông Thông, vậy ông Thông phải trung thành với thằng đày tớ.
Ví dụ 2: Vợ ông Thông trung thành với ông Thông, Ả cave phụng sự ông Thông, vậy vợ Thông phải trung thành với ả cave.
Ví dụ 3: Mèo trung thành với ông Thông, chó phụng sự ông Thông, vậy mèo phải trung thành với chó.
Rõ ràng, đây là lôgic kiểu....Lý Thông.

HÒA HỢP VỚI AI?


   HÒA HỢP VỚI AI?
   Nhân ngày 30-4, mấy ông lão ngồi nói theo tivi, chuyện hòa giải hòa hợp dân tộc.
Một ông bảo:
- Ta bắt tay Mỹ, Pháp là kẻ thù cũ, thậm chí bắt tay với Tàu Khựa đang lấn chiếm biển đảo, chỉ có với người Việt hải ngoại là ta chưa thật sự hòa giải.
Không hiểu tại sao, cùng máu đỏ da vàng với nhau, mà lại khó đến vậy.
Ông kia thủng thẳng:
- Chuyện quốc gia đại sự, tui nỏ biết. Tui chỉ biết chuyện mấy thằng con ngỗ nghịch nhà tui. Chúng nó vài chục năm rồi không nhìn mặt nhau. Trong khi đó, cả hai đứa lại hòa giải rất nhanh với bọn đầu gấu vừa mới đánh nhau vỡ mặt.
Mấy người cùng ồ lên:
- Vô lý, vô lý quá!
Ông già từ tốn giải thích:
- Theo tui, anh em chúng nó không bỏ qua cho nhau, trong khi chúng lại hòa hợp được với bọn giặc, cũng có nguyên do.
Rít một hơi thuốc lào, rồi lão nói tiếp:
- Thứ nhất, là vì bọn chúng nhát gan, cho nên mới sợ người ngoài.
Thứ hai, anh em trong nhà, biết tỏng sự tầm thường và giả dối của nhau, nên chúng không thể tha thứ cho nhau.
Thứ ba, chúng cùng dòm vào số tài sản thừa kế, khi tui chết.
.......
Chuyện đến đó, thấy mấy lão ông trầm ngâm hồi lâu, rồi lục tục giải tán.



Chủ Nhật, 21 tháng 4, 2013

CHUYỆN Ở LÀO


Chuyện ở Lào
Category: , Tag:
09/04/2010 03:02 pm

Mình xin kể chuyện đi "chuyên gia" ở Lào.
Hè 1997, mình được Sở GD Hà Tĩnh cử đi dạy toán cho giáo viên Lào trong 1 tháng. Số là tỉnh Hà Tĩnh kết nghĩa chi chi đó với tỉnh Bolikhamxay của bạn, và tỉnh bạn mời 2 "chuyên gia" toán của Hà Tĩnh sang "phụ đạo" cho giáo viên toán của họ. Mình và Nguyễn Hải ở Minh Khai được cử đi. Hi hi!
Mọi chuyện thì hầu như quên hết rồi, duy có chuyện này thì không quên được.
Người ta vẫn cho rằng nạn trộm cắp chỉ có ở các nước lạc hậu, còn ở các nước văn minh thì không có(hoặc rất ít) chuyện trộm cắp.
Hồi đó (và có lẽ là cả bây giờ), Lào lạc hậu hơn ta nhiều. Ấy thế mà hầu như không có trộm cắp. Xe máy dựng ở đâu chìa khóa cũng cắm luôn trên xe, xe đạp thì đêm để ở dưới nhà sàn. Đêm ngủ ít nhà khóa cửa.
Thỉnh thoảng cũng mất cắp. Nhưng hầu như là bắt được kẻ cắp ngay. Người Lào rất ghét trộm cắp, nên hễ có mất cắp là mọi người đều tham gia đuổi bắt. Vả lại toàn đường độc đạo, nếu bị đuổi sau, đón trước, thì đố các chú thoát.
Học trò Lào rất mến thầy (họ cũng là giáo viên, nhưng còn trẻ lắm). Chỉ phiền là hai thầy đều dốt ngoại ngữ nên giao tiếp cứ phải qua anh Thả Von phiên dịch ( Bộ GD Lào cử anh về giúp).
 Hôm mãn khóa, làm lễ buộc chỉ cổ tay (để trừ tà ma dọc đường cho hai thầy), Thầy trò múa hát tới khuya. Lãnh đạo sở và  tỉnh tới cùng múa lăm vông (thua hẳn lãnh đạo ta về khoản quan cách-tôn ti trên dưới chi chi đó). Học trò hỏi chuyện hai thầy nhiều. Nhưng có câu hỏi này, giật mình đến bây giờ.
Em Viên (xinh như hoa hậu) là giáo viên mới ra trường hồn nhiên hỏi hai thầy:
- Thầy ơi! tại sao ở đây, lần nào bắt được kẻ cắp, kẻ trộm, chúng đều là người Việt hả thầy?
 Nghe dịch xong, mình và Hải nhìn nhau. Thấy cậu ta đỏ mặt tía tai,  biết mình phải trả lời thôi. May mà còn phải dịch đi, dịch lại, mình cũng hay đọc sách linh ta linh tinh nên trả lời không đến nỗi nhục bản thân lắm ( không dám nói đến quốc thể đâu, vì người hưởng trọn nỗi nhục là thằng mình thôi). Mình nói:
-Người Việt trước đây cũng không có tính trộm cắp. Thời đánh Mỹ kho lương thực để ngoài trời, chỉ trùm tấm bạt, không có thủ kho, dân thì rất đói nhưng không có ai ăn cắp. Bộ đội Việt sang giúp Lào cũng không ăn cắp. Người Việt bây giờ nói chung cũng không có tính ăn cắp. Có một số rất ít kẻ sinh thói xấu đó, nhưng pháp luật Việt nghiêm lắm(!) nên họ phải chạy ra nước ngoài hành nghề. Lào gần Việt, nên có lẽ chúng sang Lào nhiều hơn.
 Nói đúng ý thế, nhưng có lẽ không mạch lạc như thế. Sau đó, anh Thả Von có khen. Học ở Việt 10 năm, anh thừa biết ở Việt trộm cắp nhiều hơn ở Lào, chắc là khen bịa giỏi thôi. Của đáng tội, mình vẫn cho rằng chỉ bịa tí ti ( dù là ý quan trọng nhất)sau cùng thôi. May, không ai vặn lại.
 Giờ người Việt sang làm ăn ở Lào nhiều. Người Lào có "cảm hóa" được cho họ tính thật thà, lương thiện?. Hay lại bị "cảm hóa ngược" thói trộm cắp?. Chắc giờ trộm cắp bên đó, tỷ lệ ngang nhau rồi!
Những học trò Lào hồi đó, bỏ qua chuyện thầy Trợ nói dối họ hay chưa?
                          Bài từ Blog yahoo-2010

Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2013

CHUYỆN THA HÓA CỦA MÈO CHÓ VÀ SÂU BỌ


   CHUYỆN THA HÓA CỦA MÈO, CHÓ VÀ SÂU BỌ
    Chuyện mèo.
 Nhà tui có ba người nhưng có tới tám con mèo. Năm ngoái mèo mẹ sinh ba, năm nay lại sinh bốn. Hàng xóm cũng đầy mèo, nên kêu cho mãi mà không ai lấy. Vả lại lũ chuột lộng hành quá, thôi thì nuôi thêm mèo may ra chúng sẽ bớt phá chút nào chăng.
Trước đây, chỉ cần nuôi một con mèo, nhà quanh năm không có bóng chuột. Trộm cướp sợ công an thế nào, thì chuột sợ mèo y chang như vậy. Mà không lo chuyện mèo ăn vụng, một phần bởi dưa cà không ngon bằng thịt chuột.
 Giờ thì có lắm thứ ăn ngon hơn loại thịt hôi rình đó, nên để mèo bớt ăn vụng, chỉ có cách mời chúng ăn trước. Mèo thời nay được chăm béo như lợn, nên lười làm bổn phận của mình. Chúng tự thị đến mức không thèm giấu cứt nữa, suốt ngày con người chỉ lo dọn cứt mèo. Đêm đêm cả xóm lại giật thót mình vì tiếng gào man dại dâm đãng khi làm tình của bọn thoái hóa này.
 Nhà tui có một bình thủy tinh chuyên đựng cá khô. Miện bình chỉ lọt nắm tay nhỏ, nên lũ mèo chịu chết. Một hôm, tình cờ tui thấy một con chuột nhắt chui vào bình, rồi chuyển cá ra ngoài cho mấy con chuột to. Thế là lũ chuột khuân gần hết bình cá lên giấu trên gác xép. Sáng mai lại thấy lũ mèo tranh nhau cá khô. Hóa ra chúng thông đồng với nhau. Thảo nào, nuôi bao nhiêu mèo mà chuột ngày càng tăng.
  Trong bầy mèo, chỉ có một con sống bằng thịt chuột. Nó là con mèo tam thể, loại mèo quý này không bao giờ ăn vụng. Lũ mèo mun kia tẩy chay nó. Chắc vì nó không cùng đi ăn trộm, nhưng có thể chỉ vì nó khác màu lông. Nhưng một hôm, con chó dữ hàng xóm chạy sang cắn chết con mèo quý. Không ai hiểu vì sao, con chó lại cắn đúng con mèo nhanh nhẹn nhất.

   Chuyện chó.
 Ngày xưa, nhiệm vụ của chó là giữ nhà và dọn vệ sinh. Chó cũng là loài vật gần gũi với con người nhất. Nói chúng là nô bộc trung thành của người cũng không ngoa. Khi con người đi săn, nó là kẻ dẫn đường. Các cụ bảo “Lạc đường, nắm đuôi chó. Lạc ngõ, nắm đuôi trâu” đố có sai. Vậy thiên chức cao cả nhất của chó là: dẫn đường.
 Ngày nay lũ chó thoái hóa, không giữ được nhà, chẳng dọn nổi vệ sinh, mà dẫn đường lại càng không thể. Không phải người nuôi chó giữ nhà, mà là làm nhà giữ chó. Không phải chó dọn phân người, mà người dọn phân chó. Chó không dẫn đường, mà người phải dắt nó đi dạo và đi ỉa đái. Có khi, chó vẫy đuôi với người ngoài và cắn người nhà.
  Ông bạn tui, làm sếp ở thành phố, nhà nuôi một con Béc giê to. Mỗi ngày nó xơi bay vài kí thịt bò. Mốt mới đang thịnh hành là mốt Bécgiê, thay cho mốt chó Nhật đã lỗi. Nhà cao cửa rộng, chủ yếu dành cho chó ở. Bạn tui tất tả suốt ngày, có khi nửa đêm mới chạy về để ngủ. Uy phong sếp của hắn, chỉ thể hiện ở cơ quan. Về nhà thì hắn phải dựa uy của ông Béc giê. Đứng trước vị Béc tròm trèm một tạ này, khách khứa đến cầu cạnh không run thì mới là lạ.
 Có lần anh bạn hỏi tui:
- Cậu biết răng người xưa gọi là “cẩu quan” không?. Tui chột dạ, lắc đầu. Anh ta tiếp:
- Cẩu quan, vừa hàm ý “Quan như cẩu” nhưng cũng có hàm ý “Cẩu như quan”. Cậu xem, con Béc này còn lẫm liệt hơn khối kẻ...
 Không ngờ, ông Béc lẫm liệt đó lại phản chủ. Tháng trước, bạn tui bất ngờ bị nó cắn gần chết, may hàng xóm đến kịp thời. Điều kỳ lạ, là anh ta vẫn tiếp tục nuôi con Béc. Chỉ có điều, anh ta ít thả nó và không dám vuốt ve nữa.
 Chuyện đời Tống, ông Bao Chửng dùng mỗi một cái “Cẩu đầu trảm” đã làm yên được lòng thiên hạ. Đời nay, chắc chắn thiên hạ rồi sẽ yên, vì “Cẩu đầu trảm” có ở khắp nơi. Nghe đâu, “Cẩu đầu trảm” có nhiều nhất ở vùng đặc sản Nhật Tân.

     Chuyện sâu bọ.
  Lại nói chuyện ăn đặc sản. Sâu bọ chính là món ăn đặc sản cao cấp nhất hiện nay. Tui đã vào quán "Đặc sản sâu". Không còn lo chuyện “Con sâu làm rầu nồi canh” nữa, vì ở đây đã có những nồi canh toàn sâu. Rồi lại món sâu xào, món rắn rết hấp, món nhộng tẩm bột. Sâu, sâu, sâu, trong quán này sâu bọ lên ngôi.
 Ngoài chợ, thứ gì không có sâu bọ chen lẫn vào, thì bị người mua nghi ngờ. Rau thì phải "rau nào sâu ấy", nước mắm, hoa quả thì phải thum thủm, và dứt khoát là phải có ròi bọ.
  Nhưng ngoài ruộng vườn, sâu bọ vẫn là lũ phá hoại như xưa, nên vẫn phải loại trừ. Khốn nỗi, sâu bọ đời nay tha hóa nặng, nên không còn dễ trị như trước. Chúng nhờn với mọi loại thuốc trừ sâu. Khắp nơi, dân tình đang lao đao với sâu bọ.
  Hồi nhà tui còn trong xóm cũ. Khi cam, bưởi, tắt, quýt ngoài vườn có sâu, thì chỉ cần vãi một nắm tro bếp, là chúng đi hết. Nay thì vài bữa xịt một lần thuốc sâu, mà chúng cứ sống nhăn răng.
  Vườn mới nhà tui, rất nhiều cây nhãn. Mùa nào cũng đầy hoa, có mùa quả con tríu cả cành, nhưng chưa bao giờ có nổi một chùm nhãn để ăn. Ấy là vì bọn bọ xít. Phun thuốc, chỉ đuổi chúng được dăm hôm. Có hôm, tui lấy sào xua chúng, chúng bay lên tán loạn, đồng loạt tưới xuống một thứ nước gì đó, rồi lại hạ xuống chỗ cũ. Hóa ra chúng phóng nước đái ra để phản công tui. Nước đái bọ xít một loại axít cực mạnh, có thể làm mù mắt, bỏng da. Hú vía, tui không mơ đến chuyện ăn nhãn và không dám đứng dưới gốc nhãn nữa.
 Mối mọt cũng một loài với sâu bọ. Mối mọt ăn gỗ, ăn rừng, ăn đê điều, cầu cống, nhà cửa. Sâu bọ ăn tất cả mọi thứ, kể cả xác chết. Và con người đang phải oằn lưng trả tiền cho các thứ chúng ăn. Chúng lại sinh ra các loại bướm để mê hoặc người. Nơi nào sâu bọ nhiều là lũ bướm xuất hiện. Con người ghét sâu nhưng lại thích bướm, kể cũng lạ. Thời nay, con người mà tấn công sâu bọ, chúng đáp trả ngay. Thông thường thì chúng tấn công trước, con người chống đỡ và bỏ chạy. Càng thoái hóa, chúng càng mạnh. Càng biến chất, chúng càng phàm ăn và độc ác. Chưa bao giờ lũ sâu bọ sợ người, mà chỉ thấy người sợ chúng. Con người đang biến thành nô lệ của sâu bọ.
   Sự thoái hóa biến chất của mèo, chó và sâu bọ, đang diễn ra trước mắt mọi người. Và con người đang bất lực nhìn các con vật gần gũi đó biến thành các Ông Mèo, Ông Chó, Ông Sâu Bọ. Bất lực vì họ không thể ngăn nổi sự tha hóa của lũ vật. Bất lực vì những con vật đó, không bị chi phối bởi các quy tắc sống của con người.

                                                              Trần Đình Trợ (trandinhtro.tk)

MAY!

MAY!
Mấy hôm rồi, cái face của mình cứ trục trặc. Không hiểu do nhà mạng chặn hay do máy tính, mà mình tìm đủ cách không vào nổi. Các trang khác thì vẫn vô tư, riêng cái fb thì chịu cứng. Sau đó mình phải vào bằng mfacebook.com, rất khó coi và khó đăng bài.
Thật may, tối nay có chuyên gia Đức Bò đến. Mày mò một hồi cũng sửa được cái face. Cảm ơn chú chuyên gia rất nhiều.
Bị trục trặc, mới biết cái fây này và bạn bè trên nó là ...rất quan trọng với mình.
May!

KHÓ HƠN LÊN TRỜI-PHẦN 1

    KHÓ HƠN LÊN TRỜI 
 Đó là nói về việc chống tiêu cực trong trường phổ thông. Cuộc chiến giữa các gã Donkihote với hệ thống cối xay gió của ngành giáo dục hiện nay.                                          
                                                 Phần I
                                   BÁCH CHIẾN, BÁCH BẠI
   Tổ sư nghề giáo, tiên sinh Chu Văn An, vốn là người “chống tiêu cực” quyết liệt. Nhưng dâng “Thất trảm sớ” đòi chém bảy gian thần không được vua chuẩn tấu, ngài vội vàng xách dép chạy về quê, bảo toàn mạng sống.
 Từ đó đến nay, tầng lớp “chi hồ dã dã” lại càng “mũ ni che tai” trước các thăng trầm thế sự. Công cuộc giáo dục ngày nay, so thời Minh Tông, Dụ Tông, e chẳng khá hơn. Nghề gõ đầu trẻ vốn chỉ dành cho những kẻ an phận thủ thường.
  Gần đây, chắc quá thất vọng trước kiểu co vòi rụt cổ của kẻ sĩ bốn phương, Bộ chủ quản bèn phát động “Hai không", rồi “Ba không, Bốn không” nhằm tăng sĩ khí. Vậy mà, cuộc chiến chống tiêu cực trong trường phổ thông, xem ra chỉ ve vẩy theo gió trên các băng rôn cổng trường. Cũng lác đác vài bác "Hiệp sĩ mù" vác thương, cưỡi lừa xung trận. Nhưng chiến tích vinh quang ngớ ngẩn của các bác, nói chung lại là: “Bách trận, bách bại”.
 Chẳng mấy trận chiến ra hồn, thất bại cũng lãng nhách.
  Chuyện giáo viên tố cáo hiệu trưởng chuyên quyền, ăn hối lộ, làm sai quy chế, sau đó bị trả đũa thì nơi nào chả có. Cấp trên phê bình hiệu trưởng lấy lệ, nếu cần chuyển đi làm hiệu trưởng nơi khác, còn kẻ chống tiêu cực sẽ là mục tiêu của mọi kiểu tấn công, có người thậm chí bị đưổi việc.
  Cũng có những thảm bại đáng lưu danh.
  Hiệu phó kiêm Phó Bí thư chi bộ trường Vĩnh Tường 2, ông Lê Văn Quyền, tố cáo tiêu cực của hiệu trưởng. Bị cách chức với lí do “Gây mất đoàn kết nội bộ”.
   Ông Lê Quang Vinh giáo viên trường Đức Lân, Mộ Đức, Quãng Ngãi bị buộc rời bục giảng vì dám tố cáo sai phạm của hiệu trưởng. Dù sau đó, các ngành chức năng đã minh oan và yêu cầu khôi phục quyền lợi chính đáng cho ông. Nhưng đến nay, 19 năm đã trôi qua, ông Vinh vẫn chưa được trả lại sự công bằng.
  Thầy giáo Nguyễn Thượng Long, thanh tra chuyên môn kiêm nhiệm của Sở GD-ĐT Hà Tây, hiện là giáo viên trường THPT Trần Hưng Đạo. Ông Long  từng tố cáo tiêu cực trong thi cử từ 2001 và không nhận được hồi âm từ các cơ quan chức năng. Sau đó ông Long bị cô lập và buộc chuyển xuống trường giảng dạy.
 Thầy giáo Võ Hải Bình THPT Lê Qu‎í Đôn, tố cáo hiệu trưởng nhận hối lộ. Đường dây của hiệu trưởng, tuyển sinh theo quan hệ và tiền bị bại lộ. Vụ tiêu cực này có liên quan tới thanh tra sở. Ban giám hiệu bị kỷ luật, hiệu phó là người trực tiếp lập danh sách, bị cách chức. Sau đó mấy năm, Võ Hải Bình bị cấp trên kiếm cớ kỷ luật buộc thôi việc.
   Thắng lợi oanh liệt nhất trong việc chống tiêu cực gần đây thuộc về Donkihote  Đỗ Việt Khoa. Liều lĩnh tấn công vào điểm yếu nhất của ngành giáo dục là thi dỏm, giáo Đỗ phút chốc trở thành “ Người đương thời” và lập tức được gương lên làm ngọn cờ đầu chống tiêu cực. Bộ trưởng nhân đà, chớp thời cơ nhảy ra phất cờ đánh trống.
  Thất bại thảm thương nhất cũng chính là của thầy Khoa. Hiệu trưởng mới trường Vân Tảo tung ra các quái chiêu, đả bại“Người đương thời” một cách đau đớn. Làng giáo vốn tính khí khái, nên kị nhất là hành xử kiểu du thủ du thực, hiệu trưởng dùng ngay cả bọn này để tấn công thầy Khoa. Những trò bẩn thỉu đầu đường xó chợ được hiệu trưởng sử dụng, có tác dụng ghê gớm. Dù có Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân đồng minh, công luận hậu thuẫn, Đỗ Việt Khoa buộc buông vũ khí  rời vị trí, ngậm ngùi bỏ nghề. Kể ra hiệu trưởng Vân Tảo cũng là tay du côn có hạng.
  Tương truyền, Khi Chu Văn An tiên sinh tránh về quê Chí Linh dạy học, gian thần vẫn rắp tâm trả đũa. Có lần, bọn du đãng ném đá vào nhà, lại xông vào gây sự, quẳng nghiên mực ông giáo xuống ao. Vua Trần Dụ tông, tuy ham chơi, nhưng vẫn trọng nghĩa thầy trò. Nghe thám tử báo về chuyện quan Tư nghiệp hồi hương vẫn bị quấy phá, vua truyền các quan Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, vốn cũng là trò cũ thầy Chu, mật chỉ phải như vậy, như vậy. Sau đó, bọn nha dịch làng Kiệt Đắc ngạc nhiên thấy, cứ dăm bữa nửa tháng lại có một kiệu quan lớn, tiền hô hậu ủng vi hành đến Chí Linh. Đến chân núi Phương Sơn, gần nhà Chu Văn An, các quan xuống kiệu, giữ lễ môn sinh thăm ông giáo cũ.
 Rồi chính nhà vua cũng đến Chí Linh thăm thầy xưa. Bỏ lễ vua tôi, vua hành lễ sư đồ. Bọn cường hào làng Kiệt Đắc thấy thế, sợ xanh mắt. Lại có mật lệnh từ kinh, phải để thầy Chu yên, không quấy phá nữa. Từ đó vị tổ sư này mới thật sự “Hạ cách an toàn”.
  Bộ trưởng của ta chưa kịp học theo vua Dụ tông, thầy Đỗ Việt Khoa đã xin ra khỏi ngành. Âu cũng là may cho thầy vậy. Bọn côn đồ giáo dục thời nay, đâu yếu bóng vía như mấy thằng vô lại Kiệt Đắc thời xưa. Thầy mà ở lại, không ai biết rồi sẽ ra sao.
  Vả lại, thất bại toàn diện nhất lại thuộc về chính ngài bộ trưởng. Cuộc chiến chống tiêu cực mà ngài là chủ soái coi như không có hồi kết. Tướng tiên phong họ Đỗ bị chém ngã ngựa. Thấy không ổn, chủ soái vội lai kinh, trao ấn kiếm cho phó soái. Tân soái  trong vai trò người đóng thế, tiến thoái lưỡng nan, an phận không dám "tạo dấu ấn". Hai không. Ba không, Bốn không, nay được thiên hạ gắn thêm cho một “không” nữa là “Nói không với xấu hổ”. Họ mát mẻ rằng, cứ tự ca ngợi thắng lợi của mấy cuộc thi, cuộc chống vừa rồi, là "Không biết  xấu  hổ".  Mấy  anh cuồng chữ còn dịch ngược:  "Không xấu hổ" nghĩa là "Vô sỉ", đúng là đồ lộng ngôn. May bộ trưởng của chúng ta là người anh minh, trao cờ sang tay người khác rất đúng lúc.
 Cuộc chiến chống tiêu cực trong trường phổ thông, đúng là “bách trận, bách bại”!

HÃY THA LỖI CHO THẦY

                             HÃY THA LỖI CHO THẦY !
  
         (Gửi những học sinh lớp 12 của tôi, vừa thi đậu tốt nghiệp)
   Các em học sinh thân mến !
  Thầy biết các em đang rất phấn khởi.
  Tất cả các em đã đậu tốt nghiệp. Từ em chăm học nhất, đến những em rong chơi quanh năm, thảy đều có tên trong danh sách trúng tuyển. Khắp nơi, tỷ lệ cũng nhẩy vọt bất ngờ. Những vùng rẻo cao, vài năm trước không có học sinh đậu TN, nay tỷ lệ cũng gần trăm phần trăm.
 Xin chúc mừng tất cả. 
Các em học sinh đã thỏa lòng mười hai năm đèn sách.
Cha mẹ các em, đã thỏa lòng bao năm tần tảo nuôi con.
Các thầy cô, đã thỏa lòng bao năm miệt mài giảng dạy .
Các vị lãnh đạo ngành, đã đáng công tổ chức một kỳ thi đồ sộ và tốn kém.
   Các em thân mến !
  Thầy tin rằng, nhiều em đã thi tốt, và đã làm bài một cách nghiêm túc. Các em đó đậu TN rất xứng đáng.
  Nhưng, nhiều em đã gian dối trong thi, nhiều thầy cô cũng vậy. Với danh nghĩa “thương học sinh”, họ đã chăm chút “tình riêng” mà lơ là “phép nước”.
   Giám khảo thì hết sức “đãi cát tìm vàng” để nâng điểm. Đã có những thỏa thuận ngầm, trá hình kiểu “Biên bản thống nhất hướng dẫn chấm thi kỳ thi...”của vùng ĐB SCL. Thậm chí, LĐ HĐ chấm thi còn "hướng dẫn" giám khảo là, chỉ cần trong bài thi có viết từ "đàn bà", thì phải cho điểm.
    Các em thân mến !
  Thầy biết, không có ai mong học sinh hỏng thi. Nhưng ai cũng muốn, các em đậu một cách chính đáng, trong một kỳ thi nghiêm túc.
 Những kỳ thi nghiêm túc, mà ngành GD vẫn thường nói. Các nhà trường đã khuyên các em cố gắng học tập. Khuyên rằng, không thể gian dối trong thi cử. Khuyên rằng, ngành sẽ dùng kỳ thi TN để tuyển sinh ĐH, theo kiểu"hai trong một".
  Thầy cũng đã dạy về quy chế thi cử, thầy cũng đã dạy về sự nghiêm minh của “hai không”, “bốn không” cho các em.
Nhưng qua kỳ thi này, các em đã tận mắt thấy tất cả.
  Hãy tha lỗi cho thầy!
  Những lời các thầy dạy trước đây, bỗng chốc thành lời nói dối. Không gì có thể biện minh được.
  Chẳng lẽ biện minh rằng, chính các thầy cũng bị “lừa”. Chẳng lẽ biện minh rằng, kì thi năm sau sẽ có nghiêm túc thật sự. Than ôi! Bao nhiêu là năm sau rồi.
  Chỉ có thể nói: Những bài học cao quý, đã thành lời nói dối trơ trẽn!
  Các em thân mến !
  Nhà trường dạy các em về lòng dũng cảm. Ngành GD đã tuyên chiến với "bệnh thành tích", và đã vinh danh sự dũng cảm của thầy giáo Đỗ Việt Khoa. Chính thầy cũng đã dạy các em: Dũng cảm nhất, là vạch trần sự gian trá.
  Trong kỳ thi vừa qua, có nhiều sự gian dối đã diễn ra. Nhiều em đã nhìn thấy, nhiều em lại chính là thủ phạm của sự gian dối đó. Giám thị, giám khảo cũng chứng kiến và tham gia sự dối trá. Nhưng chưa mấy ai lên tiếng.
  Hãy tha lỗi cho thầy!
 Thầy cũng đã không lên tiếng.
 Không thể biện minh nổi. Chẳng lẽ biện minh rằng: đang tồn tại sự giả dối khác còn nghiêm trọng hơn; rằng: đang có nhiều tấm bằng thạc sĩ, tiến sỹ còn dổm hơn? Chẳng lẽ biện minh rằng: sự giả dối đang diễn ra mọi nơi; rằng: tệ nạn tham những, hối lộ đang tràn lan, rồi chuyện “đưa phong bì” cũng đang phổ biến?
 Những thứ đó, cũng không biện minh nổi cho sự đớn hèn trong mỗi chúng ta!
  Các em thân mến !
  Chúng ta biết rằng: Làm người, cần nhất là sự trung thực. Con người, trước hết phải trung thực với bản thân mình. Thầy đã nói với các em: Phải biết chấp nhận, thi rớt còn vinh dự hơn gian lận khi thi.
 Nhưng thực tế lại thật phũ phàng.
 Vừa thi xong, có người khoe khoang ngay về những sự dối trá.  Có kẻ lại hớn hở vì đã “trúng quả đậm” trong khi “làm thi”. Mọi người cùng hỉ hả với một tỷ lệ đậu cao gian dối.
  Hãy tha lỗi cho thầy!
  Khi thấy các em đậu hết, thầy cũng đã phấn khởi, dù biết chắc chắn có sự gian dối. Nay thầy lại thấy hổ thẹn về chính điều đó.
   Rồi sự vui mừng của chúng ta sẽ qua nhanh. Sự huênh hoang về các con số, cũng sẽ chôn vùi dần trong sự dè bỉu. Nhưng dư vị đắng cay, chua chát về sự giả dối, thì không dễ nhạt nhòa. Nỗi buồn tủi và sự hổ thẹn vì đã thiếu trung thực, cũng sẽ còn xót xa mãi trong lòng mỗi chúng ta.
 Những gì đã xảy ra trong kỳ thi, khiến chúng ta thấy nhục nhã. Các em ơi, vì chúng ta vẫn là người ! 
   Các em thân mến!
   Kì thi vào ĐH đang chờ, một giai đoạn mới sẽ bắt đầu với các em.
   Nhưng các em hãy nhớ lấy sự đau đớn này. Thầy đã thất bại đau đớn trong những bài học lớn, mà thầy đã dạy các em. Bài học chống lại thói giả dối, bài học về lòng dũng cảm và bài học về sự trung thực.
   Xin hãy tha lỗi cho thầy!

                                               Trần Đình Trợ
                                          (Hương Sơn   Hà Tĩnh)

HẠNH PHÚC CỦA LỢN

HẠNH PHÚC CỦA LỢN
Sáng nay, cùng ngồi với mấy người nghe mụ Tivi lảm nhảm về “Chỉ số hạnh phúc”, ông bảo vệ trường mình hỏi:
- Nếu đem các chỉ số này, áp dụng cho lợn, thì lợn rừng và lợn nhà, loài nào hạnh phúc hơn?
Bác thợ xây ngồi hóng chuyện, láu táu:
- Tất nhiên là lợn rừng rồi. Chẳng lẽ nhốt trong chuồng, ăn cám con cò, chờ lên bàn mổ, lại hạnh phúc hơn !
Ông bảo vệ cười:
- Đừng nói ẩu, phải soi từng tiêu chí chơ. Một, “cảm thấy hài lòng với cuộc sống hiện tại”, lợn nào hơn?. Hai: “Môi trường sống an toàn” lợn nào hơn?. Ba: “Thân thiện với người xung quanh”, lợn nào hơn? Bốn....
Ông thợ xây cướp lời:
- Hạnh phúc như rứa, sao con lợn rừng không chui vô chuồng mà hưởng?
Ông bảo vệ cười:
- Thì vì chúng là lợn, nên không biết tìm đến hạnh phúc. Ngu như lợn mà lại!

GIÁO VIÊN SỢ...

GIÁO VIÊN SỢ...
   Bậc thượng nhân quân tử, vẫn sợ ba điều: Sợ mệnh trời, sợ kẻ đại nhân, sợ lời thánh nhân.
   Giáo viên là hạ đẳng tiểu dân, sợ nhiều điều. Nhưng sợ nhất vẫn là hiệu trưởng và...học trò.
    Sở GD nắm cần câu, nhưng canh chỗ câu cơm của GV lại là hiệu trưởng. Vì thế giáo viên thảy đều sợ hiệu trưởng. Hiệu trưởng lại thường là thương nhân, họ hay“mua sỉ”, rồi “bán lẻ” kiếm ăn. Thứ họ buôn, là ghế.     
   Loại ghế thời thượng đó, công năng đặc biệt, ngồi lên dính đít ngay. Khi muốn dứt ra, phải nhử bằng một ghế khác to hơn, hoặc trấn bằng bùa quyết định nghỉ hưu. Kẻ yếu ngồi lâu thành kẻ mạnh, kẻ nghèo bỗng hóa ra giàu. Đứa liệt dương thành thợ chơi gái. Cừu non thành chó sói, chuột non lại hóa mèo già.
   Một thầy chuột nhắt nhút nhát, lên hiệu trưởng oai vệ như mèo. Quay lại khống chế đồng bọn cũ, anh ta vừa phân việc vừa chia cơm cho cả bọn. Lại nhờ mèo to hậu thuẫn, chén dần những chuột cứng đầu. Ít khi lũ chuột dám cắn lại mèo. Chuột cắn cả đám mèo thì chưa thấy bao giờ.
   Năm 2006, Võ Hải Bình cùng một số thầy khác, tố giác những sai trái của BGH trường Lê Quý Đôn. Chuyện vỡ lở, thân chinh Bộ trưởng GD phải chỉ đạo giải quyết, nhổ khỏi ghế tất cả BGH trường đó.
   Bốn năm sau, nhân một lỗi nhỏ của Võ Hải Bình, BGH mới của LQĐ cùng GĐ sở GD&ĐT TP HCM tống cổ “kẻ thù chung” ra khỏi ngành. Tiểu nhân trả thù sau ba năm đã là quá muộn.
  Giáo viên chậm soạn bài có thể bị cảnh cáo, coi thi sơ ý có thể bị cúp lương, mất việc. Hiệu trưởng ăn quá lộ chỗ này, thì trên điều đến chỗ khác để ăn to hơn. Đó là đạo lý của những con mèo ngồi cùng mâm.
  Thầy Bùi Xuân Tân kể, một dạo hiệu trưởng và giáo viên Minh Khai kiện nhau tùm lum. Thanh tra kết luận HT sai mười mươi, cấp trên bèn “thương lượng” để HT “hạ cánh an toàn”. Chả bù trước đó, mấy chục án kỷ luật GV ban ra, chỉ vì họ“đen đủi” trong khi coi thi.
   Trường HS, từ 2002 đến 2007 không có hố xí. Nỗi khổ chung này ai cũng rán chịu thành quen. Mấy nhà gần trường, bất đắc dĩ biến thành nơi đón khách ỉa nhờ. Có hôm vội quá, một học sinh bĩnh ra quần. Ngượng với bạn bè quá, bỏ học luôn. Vận động mãi, em mới chịu tiếp tục đến lớp. Thầy HL lại “có vấn đề” khi đang thao giảng, buộc phải phóng xe về nhà “giải quyết”, trở lại thì vừa hết tiết. Tổ không biết xếp giờ loại chi, đành bắt thầy thao giảng lại.
  Học sinh được thể, xin đi “ỉa - điện tử” ngày càng nhiều. Phụ huynh xót con, xót của, rủ nhau kêu ca. Hiệu trưởng hứa giải quyết, nhưng đòi thu thêm tiền. Có người viết đơn gửi sở, thế là mấy cái “tự hoại” tự dưng mọc lên, chả ai phải góp thêm xu nào. Mất toi tiền, HT chửi đổng trong họp “Có đứa hèn, chỗ đi ỉa cũng kiện cáo !”
   Lại có những HT vừa là“thương gia”, vừa là “sáng kiến gia”.
   Ngày trước, có một HT ở Hà Tĩnh đưa ra sáng kiến “Lượng hóa tâm hồn”. Biến trường thành trại, bằng cách lập đội “giám thị-quản giáo” chấm điểm mọi thứ. Các “kỹ sư” dễ làm việc, khi “tâm hồn” đã được “lượng hóa” chi tiết. Khi lên làm GĐ, ông này còn vận dụng “đấu thầu” kiểu “ai chọn đúng giá” vào trong GD. Nhìn cơ ngơi của ổng, thì biết sáng kiến rất hiệu quả.
  Trường Việt Vinh Hà Giang lại có tay HT có ý tưởng “Khai thác vốn tự có”. Biến trường học thành chốn mua bán hoa non. Ý tưởng độc đáo này được cả cấp trên cùng triển khai. Nếu kịp nhân rộng, chắc chắn đã thay đổi diện mạo của nền giáo dục.
   Trường Vân Tảo Hà Tây, HT lại có sáng kiến lập ra đội “Du côn cơ động”. Mục tiêu là bảo vệ truyền thống thi cử của ngành. Truyền thống ấy, ở Vân Tảo bị Đỗ Việt Khoa phá bĩnh. Chỉ mấy chiêu, đội cơ động hạ đo ván ngay Người đương thời. Làm rúng động mấy kẻ ham chống tiêu cực trong toàn ngành.
    Cũng có hiệu trưởng tố chất thương gia yếu, họ lo việc trường hơn chuyện kinh doanh. Nhưng mà kiểu hiệu trưởng tận tâm, cũng là nỗi sợ của giáo viên. 
    Mấy năm trước, trường Cao Thắng có thầy HT Đinh Quốc Thuấn. Ông này lạ, là nhớ được“gia phả” toàn trường. Giáo viên chưa tường mặt học sinh, mà HT đã kể lý lịch ba đời từng đứa một. Công việc chung, nghe HT nói vanh vách, ai cũng sợ.
  Thầy Hồ Thành Kiểm trường Hương Sơn lại khác. Ông HT nông dân này chăm việc trường hơn việc nhà. Thức khuya sậy sớm, đốc thúc trên dưới, không tơ hào chút của công, nên hiệu trưởng lại nghèo nhất trường. Có mấy cậu tắt mắt mấy viên gạch công, bị HT nhắc nhở, sợ xanh cả mặt.
  Lại chuyện thầy Nguyễn Trí Hiệp, HT trường Minh Khai. Đội tuyển toán nào yếu, là HT nhận luyện ngay. Qua tay HT, là kết quả lại cao, nên ai cũng khiếp. HT Hiệp còn thường xuyên dạy mẫu cho giáo viên học tập. Thầy giỏi trong tỉnh, thảy đều kiêng nể vị HT này đôi phần.
    Nhưng mèo gì thì cũng là mèo, nên“chuột chạy cùng sào” phải sợ mèo là tất yếu.
                    *       *        *         *        *        *
    Thầy giáo sợ học trò lại khác với sợ hiệu trưởng. Không có trò, làng giáo đổi tên lâu rồi. Vì vậy, thầy sợ nhất là không có học sinh.
    Nỗi sợ không đủ học trò, nay đã phủ bóng lên các trường quê. Cấp I, cấp II, bổ túc, dân lập theo nhau teo dần. Có nơi, người dạy đã đông hơn người học.
   Trường cấp I xã S.B, 50 học sinh, chia thành 4 lớp, 4 giáo viên dạy với 5 giám hiệu và hành chính. Không có việc, HT bắt nhân viên nhổ cỏ quanh trường. Mấy ả cự lại: “Tốn tiền chạy việc, để đến đây nhổ cỏ à?”.
   Tỉnh Hà Tĩnh có 11 TT GDTX, trừ TT của TP Hà Tĩnh, nay chỉ còn 3 TT là có học sinh. Đó là Can Lộc, Nghi Xuân và Hương Sơn. Các TT khác, buộc phải sát nhập vào TT KTTH Hướng nghiệp & Dạy nghề. Trong khi đó, số cán bộ quản lý GDTX lại tăng lên. Mới đây, phòng GDTX lại được bổ nhiệm thêm một phó phòng.
   Các trường cấp II, cấp III bắt đầu giảm lớp. Số sinh viên sư phạm thành thầy giáo cũng giảm, điểm đầu vào SP giảm sát điểm sàn. Chi cũng giảm, chỉ cán bộ hành chính và lãnh đạo là tăng.
  Học sinh nông thôn nay đã ít, chúng lại bỏ học vì ham chơi, vì đói. Số học sinh chăm ngoan thưa dần. Rất nhiều học sinh càng học lên càng dốt, và càng học lên càng hỗn láo. Chúng ngồi lại chờ lấy một cái bằng TN thật, trong một kỳ thi dổm.
  Vì vậy, còn lâu mới làm nổi “hai không”. Chẳng ai dám giật nốt mẩu vải che thân cuối cùng của ngành GD là thi cử. Người đánh trống “hai không” đã bỏ dùi, vì ý thức rất rõ điều này.
   Thôi thì hô “thân thiện, tích cực”vậy. Chuyện thầy cô bị thóa mạ, bị hành hung, bị đánh thì nhiều. Chỉ có điều, không ai dám kêu. Thầy cô xưa nay, cũng chả mấy ai dám“tiêu cực” với học trò. Nay thêm cái “thân thiện” của ngành, thầy cô lơ mơ mất việc như chơi. Trên gằm mặt nhìn xuống, trò lừ mắt liếc lên. Trên đe dưới búa, thầy cô vừa dạy vừa run.
   Năm 2009, tại trường PTCS Trường Sơn huyện Đức Thọ, có chuyện học sinh đầu độc thầy.
    Do phải viết bản kiểm điểm về tội ăn cắp xe đạp, ba học sinh lớp 9 là L.V.T; Đ.V.T và T.N.S đã âm mưu giết thầy HT, bằng cách bỏ thuốc chuột vào nước uống.
  Đầu năm 2011, ở Đức Lĩnh, huyện Vũ Quang, có bà cụ 90 tuổi bị cưỡng hiếp và cướp của.
 Những kẻ đốn mạt vô nhân tính đó, cũng vừa rời ghế nhà trường. Chúng là C.N.A; P.M.T và T.Đ.V; cùng sinh năm 1992.
  Cũng may cho GD là vẫn còn nhiều học sinh chăm ngoan. Các em là niềm tự hào của các trường và các thầy cô. Tất nhiên không phải thầy cô nào cũng sung sướng về điều đó.
  Cách đây đã lâu, lớp 12E trường Hương Sơn có N.T.Ân, là một học sinh chăm học. Đen đủi, gặp phải một thầy dốt, buộc lòng em phải đi học ngoài với một thầy giỏi hơn.
  Suốt ba năm, Ân bị chèn ép đủ kiểu. Không đi học thêm, lại hay “vạch áo” thầy trong các cuộc “so tài” bất đắc dĩ. Vì vậy, dù giỏi toán nhất lớp, Ân có điểm tổng kết thấp nhất. Ai dè, em thi đậu 3 trường đại học với điểm toán gần tuyệt đối.
   Trần Quốc Luật là học sinh trường Cao Thắng 2006-2009. Là học sinh miền núi hẻo lánh, nhưng nhiều thầy trong tỉnh biết tiếng em. Mỗi lần thi HSG tỉnh xong, là em viết thư chê đề thi của sở, gửi các thầy. Em còn “Đề nghị Sở GD nên sáng tạo hơn khi  ra đề”. Và em minh họa bằng một số đề thi do em sáng tạo.
  Những học sinh giỏi như Ân, như Luật âu cũng là một “nỗi sợ” cho giáo viên. Đặc biệt là những người đậu vào SP với điểm áp sàn sau này.
  
    Làm người, tránh không khỏi nhiều điều phải sợ. Làm thầy giáo, sợ hiệu trưởng và học trò, là định mệnh phải chấp nhận.
  Nhưng rốt cuộc, vẫn có những thầy giáo không sợ cả hiệu trưởng lẫn học sinh. Dù họ là “thầy dự bị” hoặc “thầy nửa mùa”, nhưng vẫn gọi tắt là thầy giáo. Đó chính là những người không chạy nổi vào biên chế, và những lãnh đạo GD cấp sở trở lên.
    Kể về họ, là chuyện của hồi sau.

DỰ ÁN VỠ...

             DỰ ÁN BỊ VỠ
    Thằng bạn mình, hồi nhỏ rất thích coi chó lẹo chắc. Hắn cứ trầm trồ:
- Tại răng mà mắc chắc lâu rứa hè?
Hắn thường rủ mấy đứa bạo gan, xỏ que vào, gánh cả đôi chó lên, rồi đi rao. Đôi cẩu nào “yêu” nhau, mà gặp phải bọn hắn, coi như mạt kiếp.
  Sau này vào ĐH, hắn theo nghề thú y. Thời hươu đắt, hắn phất lên như diều gặp gió. Chữa một ca nặng, hắn lấy thù lao“hai chân” hươu. Số tiền bán“hai chân” hươu đó, mua được vài suất đất.
  Qua thời “lên voi”. Lại gặp thời hươu rẻ, rồi lỗ mấy quả buôn đất, hắn đến hồi “xuống chó”, không có công ăn việc làm.
 Năm kia, hắn bảo mình:
- Tao đang tiến hành dự án “nghiên cứu chó lẹo chắc”. Hắn bảo, sẽ chế ra loại thuốc, mà người uống vào cũng sẽ “dai” và “mắc chắc” như chó. Bước đầu đã có hiệu quả.
 Không biết thực hư ra sao, chỉ biết đám đàn bà con gái say hắn như điếu đổ. Rồi mấy anh nhà giàu, quan chức cũng hay thậm thụt đi lại với hắn. Hắn lại có vẻ phất lên...
Hôm kia, hắn gọi điện, giọng méo xệch:
- Dự án bị vỡ rồi....
Rồi hắn giải thích:
- Do chuẩn bị có cái quy định phạt ngoại tình. Mấy “chủ đầu tư” sợ dùng loại thuốc của tau, khi “hành sự”, công an dễ bắt quả tang. Thế là mấy sếp sợ, bèn cắt kinh phí...
Mình không tin hắn tí mô. Thằng bạn ni là tổ hay bịa chuyện.

CÂU THƠ GIẢ DỐI NHẤT

CÂU THƠ GIẢ DỐI NHẤT?
Trong giờ sinh hoạt, mình yêu cầu học trò: “Bình 2 dòng về một câu thơ, mà em cho là giả dối nhất”.
Hầu hết học trò nêu và bình về các câu thơ tình yêu. Chỉ vài em bình về thơ “xã hội”.
 Có một em viết:
 “Câu thơ giả dối nhất là “Tiếng đầu đời, con gọi Stalin!”. Thằng ngu cũng biết, con nít mới học nói, không thể phát âm nổi từ đó. Dù có thể vẫn có, ông bố bà mẹ hâm hâm nào đó, cố dạy cho con của mình nói cái từ đó đầu tiên.”
   Ai bảo học trò thời nay ít đọc thơ!
  TRĂM NĂM BIA ĐÁ...
    "Ẩn sỹ mà vẫn đức sáng..."
   Đó là một phần của câu văn tạc trên tấm bia đá, ca ngợi công đức Đại danh y  Lê Hữu Trác. Chủ thể lập bia là: “Sở Văn hóa, Thể thao và Du Lịch Hà Tĩnh”. Bia lập vào: "Tiết thu, năm 2009".
   Bia chế tác từ một phiến cẩm thạch lớn, đặt gian chính Nhà bia. Nhà bia đứng trước Bái đường và Hậu điện. Tất cả lại nằm trong Quần thể di tích Đại danh y Lê Hữu Trác, vừa được nhà nước đầu tư hàng trăm tỷ để xây dựng và tôn tạo.
        Xưa nay, những dòng văn bia đều phải chính xác, súc tích, chặt chẽ và trong sáng. Sự trong sáng đó vừa thể hiện lòng tôn kính tiền nhân, vừa thể hiện văn hóa của chủ thể lập bia. Và chính tầm văn hóa đó sẽ góp phần soi sáng nhận thức của những người xem bia.
     Đọc văn bia trên, người xem không khỏi băn khoăn. Không kể các dấy phẩy (,) dầu gạch nối (-) đặt tùy tiện, phần nội dung cũng nhiều chỗ đáng bàn. Có một số mâu thuẫn giữa văn bia với những điều do chính cụ Lê Hữu Trác ghi lại trong “Y tông tâm lĩnh”. Bia ghi: “...Thưở nhỏ sớm nổi tiếng tư chất thông minh, am tường cả nho y, lý số...”. Trong “Y tông tâm lĩnh”, Lê Hữu Trác kể lại: 26 tuổi rời quân ngũ, hai năm sau chữa bệnh và bắt đầu học nghề thuốc với lương y Trần Độc ở Nghệ An. Sáu năm sau, ông lặn lội ra kinh, tìm thầy giỏi để học thêm về y lý. Mười sáu năm sau ông nổi danh khắp vùng Hoan châu.
   Văn bia ghi “Cụ làm thơ dạy học, viết sách chữa bệnh cứu người..”. Vậy cụ làm thơ và dạy học, viết sách và chữa bệnh cứu người, hay cụ dạy học bằng cách làm thơ và cụ chỉ viết sách để giúp người khác chữa bệnh đây?
   Văn bia ghi: “...Ông mất...để lại cho đời một tấm gương sáng về y đức, y lý, y thuật...” (chưa kể việc, bia khắc “y lý” thành “ý lý”). “Tấm gương sáng” về y đức thì ai cũng rõ. Nhưng "tấm gương sáng" về y lý, y thuật thì nên hiểu thế nào?. Phải chăng trình độ, tài năng nay cũng được đo bằng độ “sáng, tối”?
  Đáng nói nhất là câu kết: “Ẩn sĩ mà vẫn đức sáng, danh hiển -...”. Rất nhiều người bàn luận về cách hiểu câu văn bia này. Mấy cậu học sinh bảo nhau: “Ẩn là trốn, sĩ là học trò. Hóa ra ngày xưa cụ cũng là học trò trốn học, thế mà vẫn thành người đức sáng, danh vọng”. Có ông công chức tán: “Mấy cái anh ẩn sĩ thường là vô tài, thất đức, may ra chỉ có cụ Lê Hữu Trác quê ta là “Đức sáng, danh hiển” thôi”. Có người am hiểu về Hán Nôm, giải thích: “ Ẩn sĩ là người cố dấu mình, thế mà vẫn tài hiển lộ, đức tỏa sáng”. Nhưng có người nói lại: "Ẩn sĩ đương nhiên là các bậc tài đức. Họ quy ẩn tránh chốn quan trường là để giữ lấy đức sáng, chứ đâu phải để dấu tài dấu đức?". Mỗi người mỗi ý, nên ai cũng mong biết danh tính người viết văn bia, để nhờ phân xử.
     Sách "Ẩn sĩ Trung Hoa"( Tác giả Hàn Triệu Kỳ - bản dịch Cao Tự Thanh - NXB Trẻ, trang 11), định nghĩa về“Ẩn sĩ”như sau. "Ẩn sĩ còn gọi là u nhân, dật nhân. Đó là những người vốn có đạo đức tài năng, có thể làm quan nhưng vì lý do khách quan hay chủ quan nào đó không bước vào hoạn lộ. Hoặc đang làm quan rất thuận lợi, nhưng cũng vì lý do khách quan hay chủ quan nào đó mà rời bỏ quan trường tìm nơi để ẩn".
 Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là một ẩn sĩ. Làm quan được bảy năm, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần, nhưng không được vua nghe nên cáo quan ở ẩn.
   Khi về trí sĩ, ông dựng am Bạch Vân và lấy hiệu Bạch Vân cư sĩ mở trường dạy học cạnh sông Tuyết, do đó học trò gọi ông là "Tuyết giang Phu tử". Bạn bè và học trò của ông là những người lỗi lạc. Việc quy ẩn của Nguyễn Bỉnh Khiêm càng làm cho tài danh của ông tỏa sáng. 
  Tổ sư Chu văn An cũng là bậc đức tài trước khi ở ẩn. Dâng “Thất trảm sớ xin chém 7 tên gian nịnh, nhưng vua không nghe. Ông từ quan về ở núi Phượng Hoàng dạy học, viết sách cho tới khi mất. Cuộc đời ẩn sỹ thanh bạch và tiết tháo của ông là tấm gương sáng cho muôn đời.
    La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp cũng là ẩn sĩ. Tuy chỉ đỗ Hương Cống nhưng Nguyễn Thiếp nổi tiếng là một danh sĩ tài cao, đức trọng. Ra làm quan giữa thời buổi "Chúa ác, vua hèn", Nguyễn Thiếp quyết định rũ áo từ quan, lên núi Thiên Nhẫn lập trại và bắt đầu sống cuộc đời ẩn cư với danh hiệu La Sơn Phu Tử.
 Hải Thượng Lãn Ông cũng chính là một ẩn sĩ như vậy. Những bậc tài danh này chọn con đường ở ẩn, chính là để giữ gìn “Đức sáng” cho mình. Việc ở ẩn của họ, càng làm cho tài đức của họ tỏa sáng. Không hề có mảy may một chút đối lập nào giữa “Ẩn sĩ” với “Đức sáng, danh hiển”.
   Vì vậy, viết văn bia kiểu: “Ẩn sỹ mà vẫn đức sáng...” quả thật là “đánh đố” mọi người. Rồi sẽ có người bắt chước hỏi: “Văn bia, mà vẫn viết thế này sao?”, rồi lại: “Văn hóa, mà vẫn nhận thức thế này à”. Khi đó, không hiểu người lập bia sẽ trả lời ra sao.
   Phải chăng, nên xem lại cả văn bia, đồng thời xem lại cả “Đức sáng” và “Danh hiển” của các vị “Ẩn sĩ” đã lập nên tấm bia tôn quý này.
  Đang còn có nhiều việc phải làm, may ra Khu di tích mới xứng đáng như lời Thiếu tướng GS, TS Lê Năm- Giám đốc Viện bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác. Lời đó ghi ở chính mặt sau tấm bia đá: “Khu di tích Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã được xây dựng thành một điểm sáng văn hóa lịch sử dân tộc.”
    Mới biết, người xưa đã nói, thì đố có sai: "Trăm năm bia đá thì mòn..."
                Viết trước Lễ kỷ niệm 220 năm, ngày mất Đại danh y Lê Hữu Trác
                                                                 Trần Đình Trợ