Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2013

TRĂM NĂM BIA ĐÁ...

  TRĂM NĂM BIA ĐÁ...
    "Ẩn sỹ mà vẫn đức sáng..."
   Đó là một phần của câu văn tạc trên tấm bia đá, ca ngợi công đức Đại danh y  Lê Hữu Trác. Chủ thể lập bia là: “Sở Văn hóa, Thể thao và Du Lịch Hà Tĩnh”. Bia lập vào: "Tiết thu, năm 2009".
   Bia chế tác từ một phiến cẩm thạch lớn, đặt gian chính Nhà bia. Nhà bia đứng trước Bái đường và Hậu điện. Tất cả lại nằm trong Quần thể di tích Đại danh y Lê Hữu Trác, vừa được nhà nước đầu tư hàng trăm tỷ để xây dựng và tôn tạo.
        Xưa nay, những dòng văn bia đều phải chính xác, súc tích, chặt chẽ và trong sáng. Sự trong sáng đó vừa thể hiện lòng tôn kính tiền nhân, vừa thể hiện văn hóa của chủ thể lập bia. Và chính tầm văn hóa đó sẽ góp phần soi sáng nhận thức của những người xem bia.
     Đọc văn bia trên, người xem không khỏi băn khoăn. Không kể các dấy phẩy (,) dầu gạch nối (-) đặt tùy tiện, phần nội dung cũng nhiều chỗ đáng bàn. Có một số mâu thuẫn giữa văn bia với những điều do chính cụ Lê Hữu Trác ghi lại trong “Y tông tâm lĩnh”. Bia ghi: “...Thưở nhỏ sớm nổi tiếng tư chất thông minh, am tường cả nho y, lý số...”. Trong “Y tông tâm lĩnh”, Lê Hữu Trác kể lại: 26 tuổi rời quân ngũ, hai năm sau chữa bệnh và bắt đầu học nghề thuốc với lương y Trần Độc ở Nghệ An. Sáu năm sau, ông lặn lội ra kinh, tìm thầy giỏi để học thêm về y lý. Mười sáu năm sau ông nổi danh khắp vùng Hoan châu.
   Văn bia ghi “Cụ làm thơ dạy học, viết sách chữa bệnh cứu người..”. Vậy cụ làm thơ và dạy học, viết sách và chữa bệnh cứu người, hay cụ dạy học bằng cách làm thơ và cụ chỉ viết sách để giúp người khác chữa bệnh đây?
   Văn bia ghi: “...Ông mất...để lại cho đời một tấm gương sáng về y đức, y lý, y thuật...” (chưa kể việc, bia khắc “y lý” thành “ý lý”). “Tấm gương sáng” về y đức thì ai cũng rõ. Nhưng "tấm gương sáng" về y lý, y thuật thì nên hiểu thế nào?. Phải chăng trình độ, tài năng nay cũng được đo bằng độ “sáng, tối”?
  Đáng nói nhất là câu kết: “Ẩn sĩ mà vẫn đức sáng, danh hiển -...”. Rất nhiều người bàn luận về cách hiểu câu văn bia này. Mấy cậu học sinh bảo nhau: “Ẩn là trốn, sĩ là học trò. Hóa ra ngày xưa cụ cũng là học trò trốn học, thế mà vẫn thành người đức sáng, danh vọng”. Có ông công chức tán: “Mấy cái anh ẩn sĩ thường là vô tài, thất đức, may ra chỉ có cụ Lê Hữu Trác quê ta là “Đức sáng, danh hiển” thôi”. Có người am hiểu về Hán Nôm, giải thích: “ Ẩn sĩ là người cố dấu mình, thế mà vẫn tài hiển lộ, đức tỏa sáng”. Nhưng có người nói lại: "Ẩn sĩ đương nhiên là các bậc tài đức. Họ quy ẩn tránh chốn quan trường là để giữ lấy đức sáng, chứ đâu phải để dấu tài dấu đức?". Mỗi người mỗi ý, nên ai cũng mong biết danh tính người viết văn bia, để nhờ phân xử.
     Sách "Ẩn sĩ Trung Hoa"( Tác giả Hàn Triệu Kỳ - bản dịch Cao Tự Thanh - NXB Trẻ, trang 11), định nghĩa về“Ẩn sĩ”như sau. "Ẩn sĩ còn gọi là u nhân, dật nhân. Đó là những người vốn có đạo đức tài năng, có thể làm quan nhưng vì lý do khách quan hay chủ quan nào đó không bước vào hoạn lộ. Hoặc đang làm quan rất thuận lợi, nhưng cũng vì lý do khách quan hay chủ quan nào đó mà rời bỏ quan trường tìm nơi để ẩn".
 Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là một ẩn sĩ. Làm quan được bảy năm, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần, nhưng không được vua nghe nên cáo quan ở ẩn.
   Khi về trí sĩ, ông dựng am Bạch Vân và lấy hiệu Bạch Vân cư sĩ mở trường dạy học cạnh sông Tuyết, do đó học trò gọi ông là "Tuyết giang Phu tử". Bạn bè và học trò của ông là những người lỗi lạc. Việc quy ẩn của Nguyễn Bỉnh Khiêm càng làm cho tài danh của ông tỏa sáng. 
  Tổ sư Chu văn An cũng là bậc đức tài trước khi ở ẩn. Dâng “Thất trảm sớ xin chém 7 tên gian nịnh, nhưng vua không nghe. Ông từ quan về ở núi Phượng Hoàng dạy học, viết sách cho tới khi mất. Cuộc đời ẩn sỹ thanh bạch và tiết tháo của ông là tấm gương sáng cho muôn đời.
    La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp cũng là ẩn sĩ. Tuy chỉ đỗ Hương Cống nhưng Nguyễn Thiếp nổi tiếng là một danh sĩ tài cao, đức trọng. Ra làm quan giữa thời buổi "Chúa ác, vua hèn", Nguyễn Thiếp quyết định rũ áo từ quan, lên núi Thiên Nhẫn lập trại và bắt đầu sống cuộc đời ẩn cư với danh hiệu La Sơn Phu Tử.
 Hải Thượng Lãn Ông cũng chính là một ẩn sĩ như vậy. Những bậc tài danh này chọn con đường ở ẩn, chính là để giữ gìn “Đức sáng” cho mình. Việc ở ẩn của họ, càng làm cho tài đức của họ tỏa sáng. Không hề có mảy may một chút đối lập nào giữa “Ẩn sĩ” với “Đức sáng, danh hiển”.
   Vì vậy, viết văn bia kiểu: “Ẩn sỹ mà vẫn đức sáng...” quả thật là “đánh đố” mọi người. Rồi sẽ có người bắt chước hỏi: “Văn bia, mà vẫn viết thế này sao?”, rồi lại: “Văn hóa, mà vẫn nhận thức thế này à”. Khi đó, không hiểu người lập bia sẽ trả lời ra sao.
   Phải chăng, nên xem lại cả văn bia, đồng thời xem lại cả “Đức sáng” và “Danh hiển” của các vị “Ẩn sĩ” đã lập nên tấm bia tôn quý này.
  Đang còn có nhiều việc phải làm, may ra Khu di tích mới xứng đáng như lời Thiếu tướng GS, TS Lê Năm- Giám đốc Viện bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác. Lời đó ghi ở chính mặt sau tấm bia đá: “Khu di tích Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã được xây dựng thành một điểm sáng văn hóa lịch sử dân tộc.”
    Mới biết, người xưa đã nói, thì đố có sai: "Trăm năm bia đá thì mòn..."
                Viết trước Lễ kỷ niệm 220 năm, ngày mất Đại danh y Lê Hữu Trác
                                                            Trần Đình Trợ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét