Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2013

CHUYỆN THẦY GIÁO TÔN NGỘ KHÔNG

CHUYỆN THẦY GIÁO TÔN NGỘ KHÔNG
22:45 3 thg 7 2011Công khai15 Lượt xem 23
           CHUYỆN THẦY GIÁO TÔN NGỘ KHÔNG
                      (Chỉnh lại, có cập nhật thêm, để đăng báo)
  Tổ sư chống tiêu cực trong làng giáo, chính là thầy Tôn Ngộ Không.
 Tôn Ngộ Không vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi trên tảng đá ở bờ khe. Một đạo sĩ đem về nuôi dạy thành tài. Giận mẹ bỏ rơi mình, suốt đời Ngộ Không thề không thèm dính tới đàn bà. Sau này ông Ngô Thừa Ân không hiểu, lại viết rằng Hành Giả lưỡng giới và nứt ra từ núi đá.
  Tôn Ngộ Không nối nghiệp thầy, làm nghề dạy học. Thầy Tôn vừa dạy các phép biến hóa, vừa truyền cho học sinh tính anh hùng nghĩa hiệp của mình.
   Thuở đó, giáo dục cũng lắm chuyện tiêu cực, y như sau này. Anh giáo Tôn là người cương trực, nên đã lên tận Bộ giáo dục, hồi đó gọi là Thiên đình, để khiếu kiện. Kiện không thành, thầy lại bị đức vua Như Lai tống ngục. Mãi sau vua tha, cho làm thanh tra giáo dục, kiêm phó đoàn đi lấy sách giáo khoa. Đó là kiểu “diệt rồi dùng” và “dùng rồi diệt” để đối phó những kẻ có tài mà ngang ngạnh. Kiểu dùng người này, lưu truyền đến mãi bây giờ.
  Chuyện kể về đoàn thanh tra của Ngộ Không, thị sát các trường và lấy kinh sách, được ông Ngô Thừa Ân ghi chép và bịa đặt thêm, thành truyện “Tây Du Ký” trứ danh.
   Thửa đó, đạo học hành cũng từa tựa bây giờ. Học thành tài, có thể đi mây về gió. Tu nhân tích đức nên chính quả, có thể trường sinh bất tử. Chỉ có điều, nay còn có thêm khoa học kĩ thuật hỗ trợ. Cho nên, có khi bọn thất học lại hô phong hoán vũ giỏi hơn kẻ học hành. Lũ vô lại, lại hưởng trường sinh bất tử trước các thần tiên. Chính vì thế, đạo học ngày càng suy.
   Anh giáo Tôn Ngộ Không, đơn thương độc mã lên kiện trên Thiên đình. Đầu tiên bị Ngọc hoàng lỡm, cho làm Bật mã ôn, tức là chân chăn ngựa. Sau lại cho làm Tề thiên đại thánh, càng là một chức "hữu danh vô thực". Mới biết, người trên dùng hư danh mị kẻ dưới, là chuyện có tự ngày xưa.
   Đoàn thanh tra, mới chỉ có một anh giáo con nhà nòi dốt nát, cộng vài cựu quan chức vướng kỉ luật. Trưởng đoàn Đường Tăng hiền lành, nhưng chữ nghĩa thì đặc cán mai. Hỏi gì khó, là thầy Đường Tăng đánh trống lảng, nói vấn đề này phức tạp lắm còn phải nghiên cứu. Chống chế kiểu này, các lãnh đạo dùng mãi đến nay vẫn thấy kiến hiệu.
    Thành viên thứ hai, Trư Bát Giới cũng tướng thiên đình. Do gái gú rượu chè quá độ, nên chuyện vở lỡ, thiên đình giáng làm thanh tra, dẹp dư luận. Người thứ ba, Quyển Liêm đại tướng Sa Tăng, hạng võ biền hành nghề giáo, nên chữ nghĩa chẳng đáng là bao.
   Vì thế, thầy Tôn ta được tha, lại bổ chân phó thanh tra, để “tăng cường chuyên môn”. Đoàn thanh tra được giao nhiệm vụ phải kinh lý khắp các trường, rồi sang Tây Trúc thỉnh sách giáo khoa luôn. Vua Như Lai cẩn thận, niềng ngay trên đầu anh giáo Tôn bất trị một cái niềng kim cô. Nếu không nghe lời trên, sẽ khấn chú kim cô, riết cho anh phòi óc. Cách dùng người tài kiểu này, có từ thưở khai thiên lập địa. Vua Như Lai cũng chỉ là làm theo người xưa.
   Đoàn thanh tra thị sát hết động yêu này đến hang quỷ khác. Trường học thời đó, gọi là các động yêu quái. Câu “Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò” xuất xứ chính từ thời này.
   Hóa ra mấy anh động chủ làm bậy, lại toàn là người nhà của thiên đình. Giáo Tôn nhiều phen khốn đốn, vì bọn tay trong. Nhất cử nhất động, chúng như đi guốc vào bụng đoàn thanh tra. Sắp lật mặt chúng, thiên đình lại cho người rỉ tai bảo tha, rút kinh nghiệm thôi.
   Duy có một lần, có tay Sói sáu tai là không có ô dù, hóa ra lại là một tay có tài. Mà anh ta cũng chỉ phạm mỗi tội là dám đóng giả làm thầy Tôn thanh tra. Diệt xong kẻ láo xược, cả thầy Tôn lẫn Như Lai lại tiếc, là mình đã quá tay diệt mất người tài.
   Công cuộc thanh tra của Tôn tổ sư chẳng chống được ai. Ngược lại, cứ gặp chuyện tiêu cực, là thầy lại bị niệm chú chổng vó. Khi thì bị nấu trong lò bát quái, khi bị bỏ vào hồ lô, hay bị ném vào túi càn khôn. Bọn yêu quái thời nào mà chẳng sẵn bảo bối.
   Trong truyện Tây Du Ký, vì sợ đụng chạm, tác giả bỏ qua rất  nhiều chi tiết. Hiệu trưởng Hồng Hài Nhi say rượu đốt cháy trường Hỏa Diệm Sơn. Mà Hồng Hài Nhi là cháu Ngọc Hoàng, nên đám cháy trường được ghi là cháy tự nhiên.
   Lại chuyện thanh tra ở trường nữ sinh Tây Lương. Gặp một chốn toàn giil xinh, đoàn thanh tra viện cớ, nâm lại mấy tháng liền. Khi Tôn Ngộ Không phát hiện ra cô giáo lẫn nữ sinh của trường đồng loạt dính bầu, thì sự muộn rồi. Trưởng đoàn Đường Tăng và hai đồng nghiệp Trư Bát Giới, Sa Tăng lấm la lấm lét nhìn thầy Tôn, rồi ấp a ấp úng nhờ cứu giúp. Thầy Tôn hiểu ngay sự tình quả là nghiêm trọng. Mấy ả gái Tây Lương, cũng khéo mua chuộc thanh tra. Nếu không vì bản tính căm ghét đàn bà từ nhỏ, thì thầy Tôn cũng dính mỹ nhân kế rồi.
    Tôn Ngộ Không nát óc tính kế. Rồi cùng bàn bạc với một thầy lang, mà mình vừa lén mời về từ một vùng rất xa. Hai người lập mưu, cho mấy ông háu gái thì uống lá bã đậu. Lại cho mấy cô nữ sinh lăng loàn uống thuốc trục thai. Rồi phao lên chuyện, do uống nhầm phải nước sông Hoài thai, nên ai cũng dính chửa. Nay uống thuốc, là nước giếng Tiêu thai, thì sẽ khỏi ngay. Hồi ấy chưa có giáo dục giới tính, nên  chuyện hoang đường ấy cũng qua được.
   Gần đây ở Hà Giang, bác Sầm Đức Xương cũng gặp chuyện tương tự. Sếp họ Sầm năm lần bảy lượt định chứng minh, mình và mấy đứa con gái sinh chuyện ấy với nhau, chẳng qua do uống nhầm nước sông Hà giang. Không may gặp phải thời dân trí cao, thời mà chỉ mươi tuổi, mọi người đã biết cái cách để làm cho nhau chửa đẻ. Vì vậy, dù thầy Xương cứ kêu mãi, vẫn không ai tin lời thầy.
     Lại nói chuyện công việc lấy sách giáo khoa, còn gọi là lấy kinh thư. Ai đời, đến hai vị đại thủ thư A Nan, Ca Diếp ăn hối lộ cái bát tộ vàng, còn cố ý làm ướt rồi xé mất mấy trang kinh. Bọn giữ kinh sách, dễ “ăn dày” nhất mỗi khi có chuyện “lấy kinh” mới. Vì thế, những kẻ tham lam trong giáo dục, cứ chăm chắm vào chuyện thay sách.
   Chuyến thanh tra và lấy sách đầy bất trắc ấy, rồi cũng kết thúc. Như Lai ban cho trưởng và phó đoàn lấy kinh các danh hiệu cao nhất của nhà giáo thời bấy giờ. (Kiểu như danh hiệu NGND và NGƯT của thời nay ấy!). Bốn ông thanh tra ngày nào, nay đều thành tiên thành phật. Họ ngồi mát bát vàng, hưởng hương hoa ngày lễ ngày tết, đủ sung sướng quanh năm.
                                     
                                  * * * * * * * * * *
  
   Từ lâu, thầy Tôn gia nhập cõi bất tử, xa lánh việc triều chính. Nhưng thầy vẫn là Đấu Chiến Thắng Phật, coi sóc công cuộc chống tiêu cực trong giáo dục hạ giới.
   Sáng ngày khai trường hàng năm, Tôn lão sư mở cặp mắt lửa ngươi vàng, nhìn xuống trần. Ngài tìm trong các buổi lễ trên sân trường, rồi nhai lông tơ, phù phép thổi xuống. Thầy giáo nào có chút khí phách, một tiểu Tề Thiên Đại thánh vô hình sẽ nhập vào hồn. Riêng lông tơ bản mệnh sẽ nhập vào nhân vật đặc biệt. Nhân vật đó, coi như là hóa thân chính Tôn Ngộ Không.
  Những đại danh sư như Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn chính là những chân truyền nhân của Mỹ Hầu Vương. Những hậu tổ sư nghề giáo này, là hiện thân của Đấu Chiến Thắng Phật. Các vị đó là những tinh tú của đạo học, soi sáng cả muôn đời sau.
    Nhưng hóa ra, Phật pháp vô biên không thắng nổi tương khắc ngũ hành. Vòng kim cô cũng biến hóa theo, niềng chặt từng tiểu Tôn Hành Giả. Số vòng kim cô biến ra lại nhiều hơn số Tiểu thánh. Các Đấu Chiến Thắng, bị vòng kim vô khống chế, thường vừa mới “Đấu”, đã nhận lấy “Chiến Bại”. Xưa Tôn Ngộ Không tả xung hữu đột, đánh trời quậy biển, phá âm phủ địa tào, cũng chưa nên công trạng gì. Công cuộc chống tiêu cực của các Hành giả con ngày nay, chỉ là sự vùng vẫy vô vọng giữa đủ loại vòng kim cô.
 Gần đây, thầy Đỗ Việt Khoa ở Vân Tảo, thầy Lê Đình Hoàng ở Nam Đàn 2, thầy Nguyễn Thượng Long ở Hà Tây, thầy Võ Hải Bình ở Lê Quý Đôn...được Tôn lão sư chọn làm truyền nhân. Hành Giả muốn các thầy giáo đó, thay mình dóng lên hồi trống “hai không” trong giáo dục. Không ngờ, họ lần lượt bị bọn yêu quái làm hại. Kẻ bị đuổi việc, người bỏ nghề, số còn lại bị vô hiệu bằng đủ "trò con nít" của lũ tiểu tinh.
  Những “người hùng chống tiêu cực", mang trong mình các Tiểu thánh ngày càng thưa thớt. Lông tơ Mỹ Hầu Vương mọc không kịp và cũng yếu đi theo tuổi tác. Bọn yêu quái thời nay, dùng kim cô loại rẻ hàng Tàu, cũng khắc chế các Tiểu thánh dễ dàng. 
    Thần lực của Tôn Lão sư ngày càng sa sút. Bảy mươi hai phép biến hóa dần dần bị vô hiệu. Phép "Cân đẩu vân" bị qua mặt đã đành, thần thông như "Phép rút đất", nay bọn hàng xã cũng thành thạo. Chúng rút đất công nhanh gấp vạn Tôn lão sư. Họp hành bầu bán thì ai cũng biết trước kết quả, nên trò "Đoán trước tương lai" cũng vứt xó. Trò "Khắc xuất khắc nhập" mấy đồ vật của Ngộ Không, chẳng nhằm nhò gì so với việc nhập trường tách trường ngày nay.
  "Con mắt lửa ngươi vàng" ngày xưa nhìn ngay ra yêu quái. Nay bản lĩnh bọn "tân yêu quái" quá cao cường. Gái cave lẫn trong gái nhà lành, Tôn lão còn khó chỉ ra. Nói chi đến việc phát hiện đám tham quan trong giáo giới.
  Lại nói chuyện kinh sách. Ngày xưa, đoàn lấy kinh của thầy Tôn, băng đèo lội suối, ăn nhờ ở đậu, để lấy kinh văn. Khi buộc phải hối lộ, chỉ mất mỗi cái bát tộ vàng. Kinh sách dù chưa toàn vẹn, cũng rách có mấy trang cuối.
  Ngày nay, bọn Nam Tào Bắc Đẩu mới, ti toe đòi viết kinh sách, nên không có chuyện đi lấy kinh ở ngoại thiên nữa. Soạn kinh sách quả là sung  sướng,  được đi mây về gió, lại được tiêu tốn hàng vạn bát tộ vàng. Thế mà chúng viết ra toàn thứ kinh vớ vẩn. Tự viết ra chưa ráo mực, chính chúng lại chê ỉ chê eo và xin được viết lại. Triều đình cũng làm ngơ để cùng nhau chia chác. Mới đây, chúng lại bày đặt đòi bảy mươi ngàn tỷ để thay kinh mới. Tôn lão sư ngồi tính, bảy nươi ngàn tỷ, mua được cả một dãy núi toàn bát tộ.
  Gần đây, thấy tình hình thi cử lại có vẻ yên ắng, Ngộ Không bèn thử một phép mới. Thầy hóa thân vào một cô giáo ở Tiền Giang, tham gia chấm thi. Vừa chấm ngày đầu, thầy đã tá hỏa tam tinh, không ngờ nội tình thi cử ngày nay, nát bét hơn cả ngày xưa. Các tiểu quái không phá thi công khai như thời thầy Khoa. Mà nay các đại quái lộng hành cấu kết với nhau lũng đoạn trường thi. Chúng phá âm thầm, không phải người trong cuộc, không thể vạch mặt chúng.
  Thu được bằng chứng trong tay, sợ thiên đình lại “xử lý nội bộ”, cô Đỗ Thị Lê - tức là Hành Giả hóa thân, bèn đem công khai trước công luận.
   Đòn phép bạch hóa mọi sự này, của thầy Tôn quả là hiệu quả. Bọn yêu quái rơi mặt nạ, thiên hạ thảy đều ngạc nhiên và phẫn nộ, thiên đình thì lúng túng như gà mắc tóc. Đức kim thượng, tức bộ trưởng giáo dục, phải đứng ra xin lỗi muôn dân.
  Nhưng, dù nhân dân phẫn nộ, dù thiên đình đứng ra xin lỗi qua quýt, rồi sự thể sẽ diễn biến ra sao đây?. Thầy Tôn đã thu phép thuật, quay về trời. Số phận của ngành giáo dục, cũng như của truyền nhân Đỗ Thi Lê, trước nanh vuốt các yêu nhân vừa bị cô vạch mặt là không thể đoán trước được. Thầy Tôn cũng khó lòng bảo vệ hóa thân của mình, dù thầy là Đấu Chiến Thắng Phật, dù thầy chuyên coi sóc chuyện chống tiêu cực trong giáo dục. Bọn tiểu nhân thời này, không những nhiều phép thuật hơn, mà chúng còn thù dai hơn ngày xưa.
   Phải chờ vào tôn ý của mười tám vị La Hán và đức Phật Như Lai thôi. Mọi chuyện rồi như thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
 
                                                       


LƯƠNG ĂN CƯỚP

LƯƠNG ĂN CƯỚP
00:15 21 thg 12 2011Công khai101 Lượt xem 18

                       LƯƠNG ĂN CƯỚP
Theo Kiểm toán Nhà nước, lương bình quân hàng tháng trong năm 2010 của toàn công ty mẹ EVN là 13,7 triệu, của cơ quan văn phòng tập đoàn là gần 30 triệu. Tháng trước, ông Tổng GĐ EVN “đau lòng” với mức lương 7.3 triệu/ tháng trong năm 2009 của ngành điện. 
  Ông lấy mức lương 2009 để “đau” chứ không phải của năm 2010 hay 2011, không phải vì ông ngu hay ông quan liêu, mà chẳng qua vì ông nói ra ngượng mồm. Nếu biết Kiểm toán Nhà nước công bố lương 2010 của ngành ông sớm thế này, ông “đau” luôn 30 triệu cho xong. “Đau” mấy thì rồi ông cũng phải kêu lỗ.
 Mà ông kêu lỗ cũng chỉ để đòi tăng giá, mà tăng giá lại để tăng lương cho ngành. Lần này cũng kêu lỗ xong, ông tuyên bố từ 20-12-2011 giá điện tăng 5% . Không thế, lương ngành điện sang năm lấy tiền đâu mà tăng.
 Khách hàng dùng điện, những người đóng tiền tháng nuôi ngành điện thì thu nhập ngày càng giảm. Lương bình quân của CB CNVC hiện nay chỉ gần 3 triệu, còn thu nhập của nông dân còn thấp hơn nhiều.
 Lương của giáo viên giảng dạy ĐH mới vào nghề, khoảng 3 triệu, GV phổ thông khoảng 2,5 triệu. Mới năm ngoái, GS Ngô Bảo Châu từng được mời chào một mức lương “ưu tiên” là 5 triệu/tháng.
 Đau xót nhất là lương của GV hợp đồng. Cô giáo Nguyễn Thị Hạnh, GV tiểu học tại Trường TH Kim Phượng từ năm 1997 với mức tiền công 290.000 đồng/tháng. Sau hơn 12 năm đứng lớp, hiện mức tiền công cô nhận là 1.000.000 đồng/tháng.
 Thầy giáo Mai Hoàng Hiệp, dân tộc Tày, GV hợp đồng đã 7 năm, tiền công hiện nay là 1.000.000 đồng/tháng.
 Tại trường Mầm non xã Phúc Trạch, Hương Khê, Hà Tĩnh, cô Trần Thị Hương, cô Nguyễn Thị Mậu, cô Lê Thị Dân đều được nhận 852.000đ/tháng (chưa trừ bảo hiểm), trong đó 611.000đ từ ngân sách nhà nước và 241.000đ từ ngân sách địa phương.
  Ngành điện kêu kinh doanh lỗ, sao không tự giảm lương, sao không nhận mức lương tương xứng với chất lượng phục vụ của ngành. Mà ngành điện lại lấy sự lỗ, lấy sự kém cỏi trong phục vụ của mình để tạo cớ tăng giá, đồng thời tự ban một mức lương phi lý. Dựa thế độc quyền, ngành điện đã bán hàng theo kiểu cưỡng ép người mua.
 Kiểu tăng giá của ngành điện là tăng hai lần. Tăng trực tiếp trong giá điện và tăng gián tiếp qua mặt hàng khác. Điện tăng giá, mặt hàng khác cũng sẽ a dua tăng theo, trong đó có mặt hàng đồ điện.
 Trong khi sự tăng lương nhỏ giọt của các ngành khác thực chất là giảm lương. Phụ cấp thâm niên nghề giáo, nghe rang đi rang lại chẳng thấy, mà tiền xăng với tiền điện vừa nói là họ tăng ngay.
 Ngành điện "đau lòng" với mức lương 30 triệu/tháng, ngành giáo dục im lặng với mức lương 1 triệu đồng, kể ra cũng có lý do. Vì giá điện dù có tăng 50% thì dân vẫn phải mua, học phí thì không tăng học sinh vẫn bỏ học. Các hộ nghèo không muốn con học khuya, vì lo tốn điện. Nhiều gia đình ở nông thôn, đang lâm vào cảnh thiếu ăn.
 Để biến tiền mọi người thành tiền của mình, ngành điện cố tìm cách giải thích. Nhưng giải thích kiểu họ, thà im lặng mà tăng giá, người mất tiền đỡ bực hơn.
 EVN là một doanh nghiệp nhà nước, được dựng nên bởi tiền thuế của dân. Vì vậy, lương của ngành điện phải căn cứ vào lãi của kinh doanh và phải chịu sự quản lý của nhà nước. Thực chất tiền EVN  chia nhau, là tiền móc từ túi của toàn dân, những người chủ thật sự của ngành điện. Nếu gọi là lương, thì đó là lương ăn cướp!




NẮT LƯƠNG

NẮT LƯƠNG
   Mấy năm nay, lương tăng liên tục, nhưng giá trị của lương cứ giảm dần. Nhiều người bảo, nên gọi là bù giá hay trợ cấp lương thì đúng hơn. Có mấy chị Kẻ Chợ kể chuyện “Nắt lương” lạ quá, mình chép ra đây, mọi người đọc chơi và đừng xét nét. Chuyện rằng:
    *****
  
Hồi cưới dì út, chị cả đã hồ nghi khả năng đàn ông của thằng em rể. Ngày dì dượng về lại, chị kéo dì ra chỗ vắng thì thào:
- Nó làm được mấy lần?
Thấy dì không hiểu, chị lấy tay thị phạm. Dì đỏ mặt:
- Em không biết...Nhiều lắm, đầu tiên em còn đếm, sau đó thì liên tục, liên tục...
 Trợn tròn mắt ngạc nhiên, rồi chị cả chợt hiểu ra, mắng:
- Đồ khờ. Ai lại tính như rứa. Mỗi cái ấy không phải tính là một lần đâu, mà chỉ là... một cái..., cái.. ấy...ấy....
Rồi chị ghé vào tai dì, nói tên cái động tác mới lạ đó.
 
    *****
   Lâu rồi, chị em gái lại hàn huyên. Cô em lấy phải ông chồng yếu chuyện ấy, nên người thì teo tóp dần mà chẳng chửa đẻ gì cả. Vợ chồng lại đều có lương, nên không đến nỗi vất vả như chị. Nhìn bộ dạng thiếu ăn của dì, chị mắng:
- Sao không chịu ăn uống tẩm bổ vô, lương để mần chi. Mà cán bộ sướng thật, thấy được tăng lương liên tục, mới đó lại sắp tăng lương nữa rồi.
- Không gọi là tăng lương được mô, chị ơi. Cái liên tục này phải gọi là., gọi là...là...
- Đài báo nói tăng lương, sao dì lại định nói khác?
- Giá trị thật của lương ngày càng giảm, gọi là tăng không ổn.
- Vậy dì gọi là cái gì?
- Thì ngày trước chị đã bày cho em, cứ hẩy hẩy liên tục, thì gọi là nắt mà. Vậy phải gọi là “Nắt lương” thôi chị ạ!

OẲN TÙ TÌ

 OẲN TÙ TÌ
                             Oẳn tù tì, ra cái gì, ra cái này.
   Hồi mới vào cấp ba, chúng tôi được học văn với thầy Phạm Đức Bính. Đến tiết văn là đứa nào cũng háo hức. Suốt giờ há hốc mồm nghe thầy kể chuyện văn chương. Ai cũng mừng gặp được một thầy dạy văn hay.
   Tiết trả bài lại ly kì theo kiểu khác. Điểm của thầy chỉ có các loại điểm: bốn, năm và sáu. Có đứa làm bài vài dòng leo ngoeo, lại được sáu điểm. Thằng Cần bạn tôi, văn hay có tiếng, lại bị con bốn to tướng. Cả lớp nhao nhác, mấy đứa con gái sụt sùi, thằng Cần xách vở lên toan cãi. Thầy Bính cười: “Không ai được thắc mắc, vì luật chấm bài của tôi là chấm ngẫu nhiên. Điểm lên xuống theo chu kỳ: điểm bốn, sang điểm năm rồi đến sáu, sau đó quay lại, ai rủi thì phải chịu. Ai số đen thì hãy hy vọng lần sau may hơn. Sau này các em sẽ ngộ ra triết lí sâu xa của kiểu chấm điểm này”.
  Đầu tiên lớp ngỡ ngàng, nhưng rồi cũng dịu dần. Bọn lười học lại khoái kiểu oẳn tù tì này, chỉ tội mấy con mọt sách văn hay chữ tốt, cứ vò đầu bứt tai kêu khổ mãi. Sau quen với kiểu cho điểm kì dị của thầy, chúng tôi lại oẳn tù tì với nhau, xem điểm văn đứa nào sẽ cao hơn.
   Trò oẳn tù tì, ai cũng thích. Con nít thường hay chơi trò đánh trận giả, trò bắt “biệt kích”, trò đấu tố bọn “Việt gian”. Trò nào thì cũng phải chọn ra "kẻ xấu" chịu tội, và chọn ra "ông lãnh đạo" để chỉ tay năm ngón. Ai cũng không muốn mình là kẻ bị truy bắt, càng không muốn là kẻ bị đem ra đấu tố. Tự dưng bạn bè chỉ tay vào mặt chửi rủa, còn mình thì cứ phải im thin thít. Thế là phải oẳn tù tì để chọn “kẻ gian” và chọn "chỉ huy" thôi. Không may mà “oẳn” phải chân “Việt gian” thì cắn răng mà nghe sỉ vả. Phải chờ khi nào “oẳn” lại, chúng nó lại thành “phản động”, mình lại là “chỉ huy”.  Khi đó “chỉ huy mới” bắt "quần chúng" sỉ vả lại thằng “chỉ huy cũ” cho bõ tức. Trò oẳn tù tì này khi chơi dù có bực mình, sau đó vẫn cứ muốn chơi tiếp, vì con nít đứa nào mà chẳng muốn làm "chỉ huy".
   Vả lại trò chơi may rủi này không mấy khi bị chơi gian. Vì thế, hồi bao cấp, công đoàn nhà trường phân chia các loại hàng cho giáo viên cũng làm theo cách này. Công đoàn “oẳn tù tì” theo kiểu bốc thăm. Từ xe đạp cho đến săm lốp, quần đùi nam, áo may ô nữ, đều bốc thăm tất. Có người mấy năm liền bốc không trúng, mặt như ngâm nước cống. Kẻ trúng liên tục, hơn hớn như mặt nghê đá. Dù kẻ cười người khóc, nhưng không ai kêu ca thưa bẩm gì. Vận nhà mình đen đủi mà, còn đòi kiện ai? Mới biết, vạn sự khi gặp khó, không giải được bằng lý, thì mẹo “oẳn tù tì” là thượng sách.
   Vận vào các chuyện lớn của ngành giáo dục ta, tất nhiên là không bao giờ giải quyết theo kiểu oẳn tù tì của trẻ con. Nếu coi là “oẳn tù tì”, thì ngành ta “oẳn” một cách khoa học hơn, tầm cỡ hơn rất nhiều. Chúng ta bắt đầu từ “Hai tốt” chuyển “Tiên lễ, hậu văn” sang “Tấm gương sáng” rồi đến “Hai không”, “Bốn không” lại về “Tích cực, thân thiện”. Nghe qua thì giống chơi "oẳn tù tì", ngẫm kĩ lại cũng có nhiều nét khác.  
    Chương trình giáo dục của ta cũng thế. Đầu tiên ta làm theo Liên Xô, sau theo Mỹ, nay lại định học theo Singapo. Rất nhiều đoàn nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm đã được cử đi. Ta tham quan từ trường học cho đến Sex Toy Shop, nơi nào đáng học là học hỏi. Rồi chuyện các lọai hình trường lớp, từ công lập, bán công, dân lập tư thục, chuyên rồi bỏ chuyên, nay lại trường chuyên lớp chọn. Tất cả những thứ đó, vừa giống oẳn tù tì vừa không giống chút nào.
   Sách giáo khoa lại cũng thế thôi. Sách viết đi rồi ta viết lại. sách viết lại rồi ta quay sang viết đi. Lần sau bao giờ cũng khác lần trước đôi chút, chí ít thì in ấn vẫn đẹp hơn rất nhiều. Kẻ hời hợt chỉ thấy là mọi thứ vòng vèo, trùng lặp. Người uyên thâm mới thấy thêm được sự tinh vi, huyền diệu bên trong. Kẻ tính toán thì chỉ thấy sự lãng phí, than phiền là bao nhiêu tiền của dân, ngành giáo dục ném xuống sông xuống bể. Họ chưa thể nào hiểu nổi, mọi việc trên đời có rủi có may. Gia Cát Lượng liệu việc như thần, mà vẫn phải than thở: "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên" cơ mà.
    Có kẻ loạn ngôn gọi giáo dục cải cách kiểu: “Đẽo cày giữa đường”. Họ đâu biết, phải có bản lĩnh mới dám ra đẽo ngay giữa đường. Phải có chí cầu thị, mới dám đem cày của mình mời thiên hạ khen chê góp ý. Lại còn nói, mọi thứ của ngành giáo đều mang tính "tập tàng". Dân gian chẳng nói “Rau tập tàng thì ngon, con tập tàng thì khôn” đó sao? Rau tập tàng thì ngon khỏi chê rồi, còn mấy đứa "con tập tàng", quả thật nhiều đứa còn sống hơn cả ông hoàng.
   Nhìn lại chuyện thi cử bấy nay, đâu chỉ là chuyện "oẳn tù tì". Nhìn qua thì, thi cử có vẻ "tít mù vòng quanh". Cứ tưởng chỉ là trò "mèo lại hoàn mèo", nhưng thực ra"mèo già hóa cáo" rồi, tức là vẫn là mèo nhưng có già dặn hơn trước.
   Những năm tám mươi, đi coi thi như đi vào trận. Công an hàng ngang, bộ đội hàng dọc, có khi súng nổ đùng đoàng. Bảo vệ vòng ngoài, thanh tra vòng trong, mà dân vẫn cứ “xô rào lướt tới”. Giám thị coi thi về đến nhà “mà vẫn tim đập chân run”.
  Những năm chín mươi, dẹp được nạn "thù vòng ngoài" thì xuất hiện" giặc vòng trong". Giám thị lại kết hợp nhau canh thanh tra "giúp học sinh". Ấy mới có chuyện bảo vệ kì thi khóa trái cổng, giả vờ hóc chìa khóa, để đánh bài "câu giờ" cho thí sinh "chỉnh đốn tư trang". Có vị trưởng đoàn thanh tra, bực mình trèo qua hàng rào, xông ngay vào phòng thi tóm quả tang mấy cuộn "phao thi" chưa kịp "lận lại vào lưng quần". Có lần, nhận mật báo là thí sinh Đào Anh Vũ đang vi phạm quy chế ở hội đồng thi Nguyễn Công Trứ, xe của lãnh đạo cao nhất xộc đến ngay. Lộn hết túi quần, lôi hết áo trong áo ngoài ra khỏi quần, vẫn không có tài liệu rơi ra, Đào Anh Vũ mới được tiếp tục làm bài.
  Làm "kiên quyết" đến như thế mà tỷ lệ vẫn cứ ngất ngưởng áp trăm phần trăm. "Thượng tầng" bực mình, mới tỏ thái độ "dùi đánh đục" chút sơ sơ. Thế là cấp "trung tầng" nổi khùng "đục nện khăng" tơi bời. Cho rà soát ngay, chấm phúc tra bài thi ngay. Đây này: có nhiều bài thi làm giống nhau. Đây này: giám khảo chấm nâng điểm. Đây này: giáo viên thương học sinh vô tội vạ. Hàng trăm án kỉ luật "hậu tra, hậu kiểm" được thi hành.
     Những giáo viên bỗng dưng xơi án kỉ luật, xanh xám cả mặt mày nhưng đố kêu nửa lời. Oan chút nào đâu mà kêu. Phòng thi nào thì cũng thế thôi, bài thi nào thì đều rứa cả. Tỷ lệ  chín mươi mấy phần trăm, không phải là trên trời rơi xuống, thì chẳng lẽ lại từ dưới đất chui lên. Các ông tưởng rằng, chỉ cần các ông ấy ngồi "oẳn tù tì" với nhau là chất lượng thật vọt lên được hay sao? Thôi thì phận dân đen, vận xui đụng đến đứa nào đứa nấy chịu vậy. Khi còn nhỏ chơi oẳn tù tì quen rồi, hễ "oẳn" trúng đứa nào thì cố cắn răng mà chịu.
   Những tai nạn nghề nghiệp "hậu kiểm" kiểu ấy có lẽ qua rồi. Chất lượng học sinh nay chẳng hơn gì trước, nhưng chất lượng chấm thi thì, máy ắt hơn đứt người. Ấy là máy chấm bài thi trắc nghiệm. Kiểu thi mới này, phao thi là thứ không cần thiết. Thanh tra thi, đến cũng nhẹ nhàng, mà về cũng ung dung. Cấp trên không nhất thiết phải ghé mắt qua các phòng thi nữa. Trên đến thị sát thi, giám thị và thí sinh nhiều khi không biết. Có trao đổi, mớm bài cho nhau, cũng phải tìm cách nào "hiện đại" và "tế nhị" hơn. Trắc nghiệm so "tự luận" quả là "dễ thở" cho số đông học sinh dốt. Máy chấm thi quả có "vô tư" hơn người, nhưng nay thì dốt mấy, cũng cứ oẳn tù tì cũng được vài ba điểm. Giám khảo mà chấm sai vài điểm kiểu ấy, có mà về vườn sớm!
  Cách đây chưa lâu, ở hội đồng thi H.L, có mấy thí sinh dùng tài liệu khi thi trắc nghiệm. Giám thị xem xét kĩ, hóa ra "tài liệu" đó là bốn quả cà in chữ A, B, C, D. Cứ thò tay vào túi bắt trúng quả cà vẽ chữ nào, bèn tô ngay chữ ấy vào phiếu. Không rõ hội đồng thi H.L đã xử lý món " cà tài liệu" như thế nào. Nộp lên trên hay dùng làm bữa trưa, cũng không nghe ai nhắc đến. Chỉ nghe lần ấy, có thí sinh còn tô xong bài trắc nghiệm trước khi nhận đề thi. Thi trắc nghiệm quả là tiện lợi thật.
 Những trò chơi "Bịt mắt, bắt dê", "Tắt đèn, nhà ngói như nhà tranh" hay "Tay ải, tay ai" tuy giống trò "oẳn tù tì", nhưng tất cả chỉ là trò mua vui. Trò oẳn tù tì thì có khác. Khi cần lựa chọn, cách"oẳn tù tì" giữ được hòa khí, tránh tranh giành không cần thiết. Vợ chồng ăn xong, không ai chịu rửa bát, thì "oẳn tù tì " ngay. Lúng túng trước ngã ba đường, không có ai chỉ lối, thì "oẳn tù tì", sẽ khỏi tranh cãi, kể cả khi "oẳn" sai đường. Kể ra thì, "oẳn tù tì" của người lớn không khách quan bằng oẳn tù tì của trẻ con. "Oẳn" kiểu gì mà vận đỏ cứ thuộc về người quyền chức? "Oẳn" kiểu gì, mà tiền của biến mất, cứ như là có ma hốt vậy?
  Gần đây bỗng có ý kiến nói thi trắc nghiệm là sai lầm. Môn nào thi vào đại học bằng trắc nghiệm, sinh viên hầu như không biết tí gì. Thế là nay lại phải nghiên cứu, thí điểm để mà thi tự luận cả. Dù thi tự luận là"muôn năn cũ", nhưng cũng cứ phải xem xét cẩn thận trước khi "oẳn tù tì" trở lại. Ít ra cũng phải dây dưa đủ thời gian, để "oẳn" đi hàng trăm cái máy chấm trắc nghiệm đắt tiền vừa nhập xong.
 Trò "oẳn tù tì" luôn hấp dẫn, vì không thể biết trước kết quả. Nhưng quay đi quay lại cũng chỉ dăm ba phương án, nên dự đoán cũng chẳng sai là bao. Và điều hay nhất của "oẳn tù tì" là không cần vận dụng kiến thức, không cần động não chút nào.
 Vậy cứ "Oẳn tù tì" mãi, mọi thứ sẽ "ra cái gì"? Cụ Nguyễn Công Hoan đã từng cho rằng, "oẳn tù tì" mãi, cuối cùng sẽ được cái "oẳn tà rằn"!

   Bài này Đổ Gàn có gửi đăng bên trang:

THƯƠNG…

Đăng ngày: 13:03 11-01-2011
Thư mục: Tổng hợp
                   THƯƠNG…
                           Thương người như thể thương thân….
    Trong nhà trường, to nhất là hiệu trưởng, hiệu phó, rồi bí thư chi bộ, sang chủ tịch công đoàn, (hồi trước thì gọi là thư kí công đoàn). Nay “nhất nguyên hóa” cho tiện, nên thường chỉ còn hiệu trưởng và chủ tịch công đoàn là hai người quan trọng.
    Giáo viên thì sợ hiệu trưởng, mà lại thương chủ tịch công đoàn. Họ vẫn thường ca rằng: “Công đoàn là mẹ là cha. Đói cơm rách áo thì la công đoàn”.
                                         * * * * * * *
    Tôi vào ngành, nhằm cái thời “Cái gì cũng phân, mà phân thì như cứt”. Quả là thời đó, thượng vàng hạ cám đều phân phối cả. Nhưng tại trường tôi, việc phân phối cũng không đến nỗi. Thư kí công đoàn, thầy Hà Học Quát vốn cẩn trọng như một cụ đồ. Từ săm lốp cho đến quần đùi áo lót, công đoàn đều chia bôi rất chu tất. Đầu tiên tất nhiên là ưu tiên lãnh đạo. Còn lại thì bình bầu, cũng có khi  bắt thăm may rủi. Kiểu gì, thư kí công đoàn cũng đứng ra cầm cân nảy mực. Nhưng đến đoạn chia…cứt bò, thì sự thể lại khác.
    Trường Vừa học vừa làm Cao Thắng khi đó còn là trường nội trú. Nhà trường có một đàn bò khá đông. Nhiệm vụ chính thứ hai của trường, là canh tác khoảng dăm hecta vừa đất màu lại vừa ruộng nước. Giáo viên thì được chia mỗi người vài thước đất tăng gia. Ai cũng thiếu phân bón. Của đáng tội, các thầy thời đó làm gì có tiền mà mua phân hóa học. Thứ “xa xỉ phẩm” đó, còn hiếm hơn vàng. Vậy là có chuyện xà xẻo kho phân bò, vốn dĩ dành cho vườn trường, do giám hiệu trực tiếp quản lý. Mọi người năn nỉ quá, hiệu trưởng mới chịu “bớt” một hố phân bò, cho thầy cô “cải thiện”.
   Đến khi phải bàn bạc và chia thứ “lộc trời cho” đó, thầy Quát lại ốm. Sáng thầy vẫn dạy bình thường, chiều thầy kêu đau bụng không dự họp được. Thiếu thầy, bàn không xong “phương án ăn chia”. Chúng tôi bèn rủ nhau đến xin ý kiến thầy. Thầy nằm bất động, nước mắt giàn dụa, bết cả mấy moi tóc bạc dưới thái dương. Một hồi lâu, thầy im lặng xua tay ra hiệu bảo mọi người về.
   Thầy là dòng dõi nho học mấy đời ở Sơn Hòa, chưa quen cầm cày cầm cuốc. Chắc là dầm nắng dầm sương mấy ngày, thầy bị cảm mạo rồi.
   Mãi sau này tôi mới biết, là hôm đó thầy Quát không hề ốm. Thầy khóc vì một lẽ hoàn toàn khác. Chúng tôi khi đó còn quá trẻ, đâu biết khóc như thầy.
   Sau này, nhiều người cũng đã khóc trong những nỗi đau câm lặng như vậy. Mỗi khi lòng mình quặn đau trong tủi nhục, tôi lại nhớ về những giọt nước mắt của thầy Quát. Người thư ký công đoàn của nông trại Vừa học vừa làm ngày nào. Ngôi trường - nông trại đó, mang tên người anh hùng Cao Thắng.
                                                  * * * * * * *
      Tôi chuyển về trường cấp 3 Hương Sơn cũng đang thời “Giáo án thầy giắt lưng quần, Dạy học là phụ, nông dân chính nghề”. Chủ tịch công đoàn khi đó, thầy Trần Văn Tiêu là một người mẫu mực. Trong làng giáo, anh là người nông dân xuất sắc. Trong làng nông, anh lại là thầy giáo giỏi. Anh chăm lo việc công như việc nhà mình. Hết tất bật liên hệ xin ruộng, xin đất tăng gia. Rồi lại đôn đáo tìm mua bò, mua lợn để công đoàn vỗ béo cho Tết của giáo viên.
     Số ruộng đất anh nhận làm, còn nhiều hơn ruộng đất một nhà thuần nông. Nhà anh có đủ bò lợn, gà vịt, ao cá. Thời ấy không mấy thầy làm được điều kỳ diệu như anh. Là kiếm đủ ba bữa cơm cho cả nhà.
  Xót xa thay, người thầy giáo ấy, lại gục ngã ngay trên bục giảng. Những tháng năm gian khó, đã vắt kiệt anh đến chút tinh chất cuối cùng. Không ai ngờ, người cựu hậu vệ to con ấy, lại ra đi nhanh đến thế. Anh ra đi đúng vào ngày 19-11. Những bó hoa mừng anh ngày nhà giáo, lại biến thành vòng hoa tang trên mồ người thầy xấu số.
     Bài điếu văn của phó chủ tịch công đoàn Lê Đức Nam chìm trong tiếng nức nở. Tất thảy đoàn viên công đoàn tê tái xót thương người chủ tịch của mình.
     Ngày 20-11 năm đó là một ngày tang tóc của trường tôi.
                                            * * * * * * *
      Lê Đức Nam nhận chức chủ tịch công đoàn. Giai đoạn anh làm chủ tịch, công đoàn đỡ vất vả hơn. Mọi chi tiêu, đã có một thông lệ rất tiện lợi. Đó là trừ ngay từ tiền lương của giáo viên. Dù đồng lương còm cõi nghề giáo vẫn chưa đủ sống, nhưng so với thời trước thì vẫn khá hơn nhiều. Vì thế, dù lương luôn bị cấu véo ngược xuôi, mọi người vẫn cắn răng chịu. Hết “quỹ tình thương”, sang “tiền tình nghĩa”, rồi “quỹ khuyến học”, lại “tiền giao thông”… cho đến góp tiền để công đoàn cấp trên xây nhà nghỉ ở Thiên Cầm. Tất tần tật, đều trừ vào lương tháng người lao động. Chủ tịch Lê Nam nhiều khi cũng tỏ ra bất bình. Chính anh cũng không biết cụ thể, là tiền sẽ chạy đến những nơi nào. Anh bảo “Tớ phải vào Thiên Cầm, đến nhà nghỉ của công đoàn đấm bóp thử, xem có được bớt tiền không?”
   Công đoàn, nếu không phải là “cái bung xung” thì cũng là “cái bồ chịu chửi”. Lê Nam chưa bao giờ làm “bồ chịu chửi”, vì khi bất bình, chính anh lên tiếng “chửi” trước. Chưa ai dám nói thẳng với cấp trên giọng gay gắt như anh. Chắc cấp trên cũng nể anh, bởi cái bụng đầy sẹo vết thương chiến trận. Không có việc gì ngoài “làm bung xung”, thì chủ tịch công đoàn lại đi viết giúp văn tế. Kể ra cũng hiếm thầy làm được như anh.
    Lê Nam trở thành người viết văn tế được ái mộ. Chất văn chương của một Thạc sĩ cộng với tính đa cảm đã quyện vào cây bút của anh. Nỗi xót thương những kiếp người bạc mệnh, thấm đẫm từng dòng anh viết. Cảm thức mơ hồ về một định mệnh ngắn ngủi, hình như cũng len vào giọng đọc văn điếu ai oán của người thầy ấy.
   Biết cái chức danh "chủ tịch công đoàn" chỉ là “hữu danh vô thực”, nhưng Lê Nam việc gì cũng băm bổ làm. Đang khi sức khỏe xuống, anh vẫn tất bật vào Nam ra Bắc, cố biên tập xong cuốn Tập san kỷ niệm 45 năm ngày thành lập trường cấp 3 Hương Sơn.
  Lễ kỷ niệm vừa tổ chức xong, ngày hôm sau Nam nhập viện. Người vợ hiền của anh luôn túc trực bên anh. Tất cả người thân cùng bạn bè thân thiết cũng đã hết lòng cứu giúp anh. Than ôi! "sinh hữu hạn, tử bất kỳ". Chỉ sau vài tháng nằm viện, anh đã vĩnh viễn ra đi.
   Lê Nam vốn là người tráng kiện, mà anh vẫn còn chưa đến tuổi “tri thiên mệnh”. Thế mà vận kiếp lại bất ngờ chọn đúng anh. Nhưng hình như, con người đa cảm đó, cũng mơ hồ linh cảm được số mệnh của mình. Anh thường nói “ Mình muốn chết trong vòng tay bè bạn!”.
   Mà quả là anh đã ra đi trong vòng tay bè bạn thật. Người nào cũng thương khóc anh, như khóc cho chính bản thân mình vậy. Ai cũng xót xa cho một kiếp làm thầy. Kiếp làm thầy quá bạc bẽo và quá ngắn ngủi.
    Người thạc sĩ văn chương, vị chủ tịch công đoàn với những bài văn tế lay lòng trắc ẩn, chắc cũng ngậm cười nơi chín suối. Bài văn tế anh, được bạn anh Lê Trung, cùng thầy Nguyễn Huy Liệu chấp bút. Đó là tiếng lòng nức nở của cả trường cấp 3 Hương Sơn thương xót khóc tiễn anh.
  Lê Nam chết vào trước Tết Ất Hợi. Năm đó, trường tôi đón một cái Tết thật buồn.
                                     * * * * * * *
     Những vị chủ tịch công đoàn trường tôi, họ không có quyền, cũng chẳng có lợi, mà ngay cả “danh” họ cũng không có nốt. Nhưng bằng cuộc sống trần ai, và bằng cả cái chết ai oán của mình, họ đã đốt cháy lên trong lòng mọi người một ngọn lửa. Ngọn lửa Tình Người.
    Ngoài kia, lại một vì sao nữa, lại đang rơi.
 
                                                  Trần Đình Trợ


CẦU THẦY ĐẮC

                                CẦU THẦY ĐẮC
                                                          Tặng thầy Nguyễn Lê Đắc, người tôi khâm phục.

  Cuối thập niên chín mươi. Vừa nghỉ hưu, từ ĐH Vinh thầy giáo Nguyễn Lê Đắc về quê Hương-sơn để lập một trường dân lập. Là tiến sỹ tâm lý, lại là thầy học cũ của bí thư tỉnh cùng nhiều cán bộ các cấp, công việc mà thiên hạ làm trong mấy năm, thầy cho gọn trong vài tháng. Ngôi trường dựng lên, như trong chuyện cổ tích. Tên là Dân lập Hương-sơn, nhưng dân vẫn gọi Trường thầy Đắc.
    Tọa trên một bãi màu ven bàu, trường cách đường liên thôn một con mương nhỏ. Có một cái cống tre để qua lại. Không biết ai đầu têu, nhưng mọi người đều gọi cái cống đó là Cầu thầy Đắc. Trường được gọi luôn Trường Cầu Thầy Đắc. Nhất quỷ nhì ma, học trò cứ nhao nhao “Cầu thầy đắc?. Cầu thầy đắc?”.
   Vạn sự khởi đầu nan. Kẹp giữa ba trường công lập, chẳng còn ma nào muốn vào dân lập. Thuyết phục mãi, cũng chỉ lèo tèo tám chục đứa hỏng quốc lập đến xin học, chia làm hai lớp. Trổ tài tâm lý, ông Đắc mời hết các danh sư trong vùng, hội tụ về “Giúp nhân dân Hương sơn!”. Mà hồi đó, không hiểu sao, giáo viên nào được mời cũng hồ hởi nhận lời. Dù tiền dạy chưa đủ tiền xăng. Đến cả thầy Đoàn Dánh, thầy Đinh Quỳ  nổi danh, đã nghỉ hưu, cũng xắn tay “Chấn hưng sự nghiệp trồng người quê hương”.
  Không biết do các anh tài đất Hương Sơn đồng lòng giúp sức, hay nhờ thầy Đắc trổ ngón bí truyền gì mà người học ngày càng đông. Có người giải thích vu vơ, chẳng qua do cấp trên cắt các lớp bán công ở quốc lập, giàm lớp, giảm sĩ số trường công để nuôi trường tư. Tức là, các xếp tước quyền học quốc lập của học sinh, để ưu ái ông thầy học cũ của các xếp. Có người lại tiếu lâm, bảo học sinh tò mò muốn biết “ Cầu thầy đắc?” nên rủ nhau đến.
   Lại bảo, do thầy Đắc có nhiều cải tiến, lôi cuốn được phụ huynh và học sinh. Mà thầy Đắc có nhiều cải tiến thật. Bàn ghế học sinh đóng liền lại bởi những cây xà gồ, như giàn đại pháo. Có mấy bác trộm, vào nhìn, nhỏ nước mắt rồi về. Giáo viên chỉ có bục nói chuyện, không có bàn nghế. Nếu mỏi, chỉ có ngồi bệt xuống sàn, vậy thì phải đứng mà giảng suốt giờ chứ sao. Học hai tiết liền nhau, lại tách lớp nữ riêng, nam riêng. Các cô các cậu muốn tỉ tê, hay lộ hàng khoe hàng cũng bó tay.com. Một số nề nếp, kỷ luật còn nghiêm hơn cả trường công. Ấy mà, chỉ có ông Đắc, cùng vài người nhà, quản từ A đến Z. Mới biết, các ban bệ trường khác, sinh ra chắc chủ yếu để họp hành và cản trở lẫn nhau. Nếu không thế, chẳng lẽ họ lại toàn những người kém năng lực?
   Các trường xung quanh, nhất là trường bổ túc, bị thầy Đắc giành mất học sinh. Nguồn thu chuyển từ túi họ sang túi ông Đắc. Sóng gió nổi lên. Hóa ra, có nhiều chỗ cần xem xét. Có những sai phạm giống hệt và không giống hệt sai phạm của các trường khác. Hóa ra, nhiều môn không có người dạy. Hóa ra, ông tiến sỹ dạy thay tất cả các môn trổng tiết. Hóa ra, trước cổng nhốt con becgie như con beo để dọa  học sinh... vv và vv..Báo chí vào cuộc hàng loạt, đến mức thủ tướng chính phủ yêu cầu cấp dưới phải làm rõ các sai phạm.
    Ông bí thư tỉnh, nhân chuyến công du, vào thăm thầy cũ. Huấn thị và bắt tay. Bắt tay và huấn thị. Thế là sóng yên biển lặng. Báo chí lại ca ngợi các đổi mới của thầy Đắc. Khuyết điểm thành ưu điểm. Tưởng là sai phạm lại hóa ra thành sáng tạo. Con beo becgie nằm trước nhà chuyển nằm sau nhà. Trường công xung quanh bị giao cho phấn đấu thành trường chuẩn quốc gia. Nghĩa là sĩ số phải giảm từ 50, 55 còn 45 em mỗi lớp. Nghĩa là đầu vào của dân lập tăng mạnh. Có năm, trường tuyển 12 lớp 10. Nhiều hơn mọi trường công trong huyện. Tuy mấy thầy giỏi rút lui hết, nhưng vẫn có nhiều người đến xin dạy thuê. Mấy cô cậu sinh viên mới ra trường, trượt biên chế chưa có việc làm, cũng đành cố đấm ăn xôi. Tiền thu vào bao nhiêu, không ai biết con số thực. Tấm biển gắn bó với trường từ thuở sơ khai :" Dĩ bất biến, ứng vạn biến" được gỡ xuống. Có kẻ độc mồm nói bậy, bất biến là thu tiền, vạn biến là tiền tiêu thế nào không biết. Có người lại nói, mấy năm nay học sinh dân lập Hương Sơn nhờ ơn thầy Đắc to, không có thầy làm chi có tấm bằng cấp 3. Cũng có học sinh dân lập đậu vào trường đại học, cao đẳng. Lại nghe, thầy Đắc thưởng cho một học sinh nghèo đậu vào đại học ba triệu đồng. Mấy ông hiệu trưởng công lập dám làm như vậy?
  Xưa, Khương Tử Nha ê đít ngồi câu  bên sông Vỵ, dài cổ chờ minh chúa đoái dùng. Nay Nguyễn Lê Đắc độc mã hồi hương, tả xung hữu đột, có thể coi như công thành danh toại. Trường cơi nới lên cao, khuôn viên mở rộng theo gợi ý của đồng chí bí thư. Nhà hiệu trưởng khang trang hơn nhiều. Đổi tên mới thành trường DL Nguyễn Khắc Viện, nhưng trường vẫn mang “tên tục” là “Trường Cầu Thầy Đắc”. Và Cầu thầy Đắc giờ cũng xây bê tông, hoành tráng hơn. Học sinh dân lập, đứa nào cũng thuộc thơ vịnh cầu của thầy Lê Trung:                        
                                          Đập đá, nung vôi, chuyển gạch, mời thầu.
                                         Trường mới xây lên, "bốn lầu" ngất ngưởng
                                         Sĩ tử bốn phương về tụ hội
                                         "Cầu thầy Đắc" rộn tiếng thơ ngâm.
    Có người bảo, trong những người thức thời biết kinh doanh giáo dục, thì thầy Đắc là người gặp may nhất. Cơ ngơi thầy sở hữu, nay trị giá nhiều tỷ đồng. Có người bảo, thầy Đắc có công lớn với dân Hương sơn. Có người cãi, không có trường dân lập, thì mấy lớp bán công làm thay việc, học sinh lại được đi học gần hơn thì có! Lại bảo, hay nhất là cái tên “Cầu thầy Đắc”!.
   Giáo dục, bản thân chứa đựng nhiều phong trào. Bán công, dân lập, tư thục thì cũng là phong trào. Mà phong trào thì lên xuống là lẽ thường tình. Cực thịnh chính là bắt đầu suy. Các học trò cũ, mải mê vun đắp hoạn lộ, bỏ bê việc của thầy xưa, bỏ bê những phong bao nhẹ hều. Giáo viên giờ đây lại thừa mứa, mà học sinh lại giảm mạnh. Dù cấp trên căn ke chia bôi thế nào, thì với “số lớp đầu vào” teo tóp, cũng khó thỏa ý muốn của tất cả các trường. Năm nay, chỉ vài trăm đơn vào trường “Cầu thầy Đắc”. Rồi không biết các năm sau thế nào?
   Một lần, nhân buổi tửu hậu trà dư, có người tò mò hỏi thầy Đắc:  
   - Nếu những năm sau, không có học sinh, thầy định làm gì với trường?
   - Theo các cậu, mình phải làm gì?
Một cậu tếu táo:
-  Theo em, thầy xóa trường, lập một quán thịt chó. Lấy tên quán là: “ Cầy ông Đắc”!
Cả bọn hơi hoảng, sợ thầy giận. Cái thằng, không tôn ti trật tự gì cả. Không ngờ, ngài tiến sỹ tâm lý cười sảng khoái:
-   Hay! Hay! Đã có câu hỏi “Cầu thầy đắc?” thì phải có câu trả lời “Cầy ông đắc!” chứ!
  Thật đáng khâm phục! Tương lai trường dân lập không biết thế nào. Nhưng sự tồn tại của ngôi trường ấy, cùng bao đàm tiếu khen chê, luôn gắn với hiệu trưởng Nguyễn Lê Đắc. Và còn mãi nụ cười sảng khoái của ông tiến sỹ tâm lý, với câu hỏi và câu trả lời trứ danh: “Cầu thầy đắc?”, “Cầy ông đắc!”.
                                                                 

                                                                                                 Trần Đình Trợ